Thông tin sưu tầm “về chênh lệch tỷ giá và hạch toán chênh lệch tỷ giá”

AnhV

Member
Hội viên mới
1502483_336229333230108_5610116328351791317_n.jpg

Phải nói, Thông tư 179 ra đời đã giải quyết được phần lớn những vướng mắc xung quanh vấn đề xử lý chênh lệch tỷ giá. Từ các vấn đề đã được các bạn trao đổi trên Website VACPA liên quan đến chênh lệch tỷ giá hối đoái, Ban Tư vấn VACPA xin kết lại một số điểm như sau:

Thứ nhất, về việc giải thích các khoản mục tiền tệ có gốc ngoại tệ, Thông tư 179 đã đưa ra cách giải thích mới về khoản mục tiền tệ có gốc ngoại tệ trên cơ sở tham khảo Đoạn 16, Chuẩn mực kế toán Quốc tế số 21 có giải thích về các khoản mục tiền tệ và phí tiền tệ, như sau: “The essential feature of a monetary item is a right to receive (or an obligation to deliver) a fixed or determinable number of units of currency. Examples include: pensions and other employee benefits to be paid in cash; provisions that are to be settled in cash; and cash dividends that are recognised as a liability. Similarly, a contract to receive (or deliver) a variable number of the entity’s own equity instruments or avariable amount of assets in which the fair value to be received (or delivered) equals a fixed or determinable number of units of currency is a monetary item. Conversely, the essential feature of a non-monetary item is the absence of a right to receive (or an obligation to deliver) a fixed or determinable number of units of currency. Examples include: amounts prepaid for goods and services (eg prepaid rent); goodwill; intangible assets; inventories; property, plant and equipment; and provisions that are to be settled by the delivery of a non-monetary asset.” tạm dịch: “Một đặc tính quan trọng của khoản mục tiền tệ là quyền được nhận (hoặc nghĩa vụ phải trả) một số lượng đơn vị tiền tệ cố định hoặc xác định được. Ví dụ: quỹ lương hưu hoặc phúc lợi nhân viên khác phải trả bằng tiền mặt; các khoản dự phòng phải thanh toán bằng tiền mặt; và cổ tức trả bằng tiền đang được ghi nhận là khoản phải trả…Ngược lại, đặc tính quan trọng của một khoản mục phi tiền tệ là không có quyền được nhận (hoặc nghĩa vụ phải trả) một số lượng đơn vị tiền tệ cố định hoặc xác định được. Ví dụ: các khoản trả trước cho hàng hóa dịch vụ (chẳng hạn tiền thuê nhà trả trước); lợi thế thương mại; tài sản vô hình; hàng tồn kho; nhà cửa, máy móc thiết bị; và các khoản dự phòng được thanh toán bằng các tài sản phi tiền tệ”. Như vậy, theo đoạn nêu trên của Chuẩn mực kế toán quốc tế số 21 thì các khoản nhận trước và trả trước được coi là khoản mục phi tiền tệ. Do vậy, Thông tư 179 đã ngoại trừ các khoản nhận trước và trả trước bằng ngoại tệ ra khỏi các khoản mục tiền tệ có gốc ngoại tệ.

Thứ hai, về việc quy định tỷ giá hối đoái sử dụng để đánh giá lại số dư ngoại tệ cuối kỳ kế toán là tỷ giá mua vào của Ngân hàng thương mại nơi doanh nghiệp mở tài khoản công bố tại thời điểm lập báo cáo tài chính (tỷ giá cuối kỳ của ngân hàng nơi DN mở TK ngoại tệ), quy định như vậy là sát với thực tế. Khi đánh giá lại các khoản mục tiền tệ có gốc ngoại tệ theo tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố tại thời điểm cuối năm tài chính (tỷ giá bình quân liên ngân hàng) làm phát sinh 1 khoản chênh lệch tỷ giá lớn (nếu số dư các khoản mục tiền tệ có gốc ngoại tệ là lớn) do tỷ giá bình quân liên ngân hàng thông thường còn có sự chênh lệch đáng kể với tỷ giá thực tế. Do vậy, nếu DN giao dịch bằng ngoại tệ với giá trị lớn, khoản chênh lệch tỷ giá hối đoái phát sinh sẽ là nhỏ hơn nhiều nếu đánh giá lại các khoản mục tiền tệ có gốc ngoại tệ theo tỷ giá cuối kỳ của ngân hàng nơi DN mở TK khoản. Điểm mới này của Thông tư đã giải quyết được vướng mắc mà các văn bản trước đây đã tạo ra ảnh hưởng không nhỏ đến số liệu tài chính của doanh nghiệp. Vì thế, việc áp dụng tỷ giá để đánh giá lại số dư các khoản mục tiền tệ có gốc ngoại tệ theo Thông tư 179 sẽ là phù hợp với thực tế hơn.

Thứ ba, về cách dùng từ trong Khoản 2, Điều 3 và Khoản 1, Điều 8 (cụm từ “số dư ngoại tệ cuối kỳ kế toán” và “số dư tiền mặt, tiền gửi, tiền đang chuyển, các khoản nợ phải thu, nợ phải trả có gốc ngoại tệ”) có thể hiểu là “số dư các khoản mục tiền tệ bằng ngoại tệ cuối kỳ kế toán” và các số dư này đều phải được đánh giá lại vào cuối mỗi kỳ kế toán. Như vậy, số dư các khoản mục tiền tệ bằng ngoại tệ cuối kỳ kế toán phải được đánh giá lại theo tỷ giá mua vào của Ngân hàng thương mại nơi doanh nghiệp mở tài khoản công bố tại thời điểm lập báo cáo tài chính. Tỷ giá mua vào của ngân hàng thương mại ở đây thông thường là tỷ giá mua vào chuyển khoản vì DN không được phép giao dịch ngoại tệ bằng tiền mặt. Nếu DN giao dịch ngoại tệ tại nhiều ngân hàng khác nhau thì theo khoản 2, Điều 4 Thông tư 179, DN phải tính toán tỷ giá bình quân gia quyền theo số dư giữa các ngân hàng để sử dụng làm tỷ giá khi đánh giá lại số dư các khoản mục tiền tệ bằng ngoại tệ cuối kỳ kế toán. Trường hợp ngân hàng thương mại không công bố tỷ giá quy đổi tại ngày kết thúc năm tài chính thì lấy theo tỷ giá mua vào chuyển khoản của ngân hàng thương mại tại ngày công bố gần nhất.

Thứ tư, theo khoản 2, Điều 1, Thông tư 179 “Việc xác định thu nhập, chi phí được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp đối với các khoản chênh lệch tỷ giá hối đoái trong doanh nghiệp thực hiện theo quy định tại các văn bản pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp”. Văn bản hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thuế Thu nhập doanh nghiệp hiện hành là Thông tư số 123/2012/TT-BTC ngày 27/07/2012 (Thông tư 123). Theo Khoản 2.20, Điều 6 và Khoản 8, Điều 7 Thông tư 123 thì chỉ có lãi hoặc lỗ chênh lệch tỷ giá do việc đánh giá lại số dư các khoản nợ phải trả có gốc ngoại tệ cuối kỳ mới được tính vào thu nhập chịu thuế hoặc khấu trừ vào thu nhập chịu thuế TNDN. Như vậy theo quy định hiện hành của pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp, khi đánh giá lại số dư các khoản mục tiền tệ có gốc ngoại tệ cuối kỳ kế toán (trừ các khoản nợ phải trả) theo tỷ giá mua vào của ngân hàng thương mại nơi DN mở TK thì không được tính vào thu nhập, chi phí được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế TNDN.

Thứ năm, tại điều 10, Thông tư 179 cho phép ghi nhận các khoản lỗ chênh lệch tỷ giá do đánh giá lại số dư ngoại tệ nợ phải trả cuối năm (theo Thông tư 201) của những năm trước vào chi chí trong kỳ báo cáo, việc ghi nhận như vậy là chưa phù hợp với quy định của Đoạn 12 (b) Chuẩn mực kế toán Việt Nam số 10 (CMKT 10) là: thu nhập, chi phí của kỳ nào thì hạch toán ngay vào kỳ đó. Tuy nhiên, theo thời gian thì sự mâu thuẫn với CM KT 10 sẽ giảm dần và hết mâu thuẫn.

Thứ sáu, nhất trí với ý kiến của bạn Tú Uyên trong bài viết “Bàn về phạm vi điều chỉnh của Thông tư 179//2012/TT-BTC ngày 24/10/2012 về xử lý chênh lệch tỷ giá hối đoái trong doanh nghiệp”, để thuận tiện cho việc áp dụng các quy định có liên quan đến tỷ giá quy đổi ngoại tệ và xử lý chênh lệch tỷ giá hối đoái trong doanh nghiệp, Bộ Tài chính cũng nên xem xét, nghiên cứu theo hướng quy định đầy đủ các nội dung có liên quan đến chênh lệch tỷ giá hối đoái trong nội dung chuẩn mực kế toán, chế độ kế toán doanh nghiệp. Và như vậy, sẽ không còn cần thiết phải có một thông tư riêng như Thông tư 179.
Ban Tư vấn VACPA xin trân trọng cảm ơn các bạn đã nhiệt tình tham gia cũng như tham khảo chuyên mục này. Mong cá bạn tiếp tục ủng hộ Ban Tư vấn trong chuyên mục trao đổi tiếp theo.

Link: http://www.ddth.com/showthread.php/1276697-Phần-mềm-1C-KẾ-TOÁN-và-thông-tin-sưu-tầm-“về-chênh-lệch-tỷ-giá-và-hạch-toán-chênh-lệch-tỷ-giá”#ixzz3QIAHQa38
 

CẨM NANG KẾ TOÁN TRƯỞNG


Liên hệ: 090.6969.247

KÊNH YOUTUBE DKT

Cách làm file Excel quản lý lãi vay

Đăng ký kênh nhé cả nhà

SÁCH QUYẾT TOÁN THUẾ


Liên hệ: 090.6969.247

Top