a)  Có hoá đơn giá trị gia tăng của hàng hoá, dịch vụ mua vào hoặc chứng từ nộp thuế  giá trị gia tăng hàng hoá ở khâu nhập khẩu, chứng từ  nộp thuế giá trị gia tăng đối với trường hợp mua dịch vụ quy định tại khoản 2  Điều 2 Nghị định này.
 b)  Có chứng từ thanh toán qua ngân hàng đối với hàng hóa, dịch vụ mua vào, trừ  trường hợp tổng giá trị hàng hoá, dịch vụ mua vào từng lần có giá trị dưới 20  triệu đồng.
 Đối  với hàng hoá, dịch vụ mua trả chậm, trả góp có giá trị trên 20 triệu đồng, cơ sở  kinh doanh căn cứ vào hợp đồng mua hàng hoá, dịch vụ, hoá đơn giá trị gia tăng  và chứng từ thanh toán qua ngân hàng của hàng hoá, dịch vụ mua trả chậm, trả góp  để kê khai, khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào. Trường hợp chưa có chứng từ  thanh toán qua ngân hàng do chưa đến thời điểm thanh toán theo hợp đồng thì cơ sở kinh doanh vẫn được kê khai, khấu trừ  thuế giá trị gia tăng đầu vào. Đến thời điểm thanh toán theo hợp đồng nếu không  có chứng từ thanh toán qua ngân hàng thì không được khấu trừ thuế giá trị gia  tăng đầu vào, cơ sở kinh doanh phải kê khai, điều chỉnh lại số thuế giá trị gia  tăng đầu vào đã khấu trừ.
 Hàng  hoá, dịch vụ mua vào theo phương thức bù trừ giữa giá trị hàng hóa, dịch vụ mua  vào với giá trị hàng hóa, dịch vụ bán ra cũng được coi là thanh toán qua ngân  hàng; trường hợp sau khi bù trừ mà phần giá trị còn lại được thanh toán bằng  tiền có giá trị từ 20 triệu đồng trở lên thì chỉ được khấu trừ thuế đối với  trường hợp có chứng từ thanh toán qua ngân hàng.
 Trường  hợp mua hàng hoá, dịch vụ của một nhà cung cấp có giá trị dưới 20 triệu đồng,  nhưng mua nhiều lần trong cùng ngày có tổng giá trị trên 20 triệu đồng thì chỉ  được khấu trừ thuế đối với trường hợp có chứng từ thanh toán qua ngân hàng.
 c)  Đối với hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu, ngoài các điều kiện nêu tại điểm a, b khoản  này còn phải đáp ứng đủ điều kiện quy định tại điểm c khoan 1 Điều 6 Nghị định  này.