Ðề: Mức phạt Nộp chậm báo cáo sử dụng hóa đơn Quý
Mình vừa nhặt được bài sau đây trên mạng, đọc xong rút ra được nhiều điều hay.
Căn cứ Điều 2 của luật 17/2008/QH12 luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật thì nghị định và thông tư là các văn bản quy phạm pháp luật (gọi tắt là văn bản pháp quy), còn văn bản do TCT ban hành không phải là văn bản pháp quy. Do đó nếu văn bản của TCT không có cơ sở từ hoặc quy định không đúng với văn bản pháp quy mà có liên quan đến doanh nghiệp thì doanh nghiệp có quyền không thi hành theo văn bản đó của TCT. Trong trường hợp này doanh nghiệp không vi phạm gì cả. Nếu việc thi hành văn bản đó gây thiệt hại cho doanh nghiệp thì doanh nghiệp có quyền khiếu kiện đòi bồi thường thiệt hại …
Khoản 2, điều 83 của luật 17/2008/QH12: “Trong trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn.”. Căn cứ theo điều khoản này và điều 2 nêu trên, văn bản của TCT đương nhiên là có hiệu lực pháp lý thấp hơn thông tư của BTC. Do đó nếu văn bản của TCT và TT của BTC có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng theo TT của BTC.
Khoản 1, Điều 5 của luật số 17/2008/QH12: “…Ngôn ngữ sử dụng trong văn bản quy phạm pháp luật phải chính xác, phổ thông, cách diễn đạt phải rõ ràng, dễ hiểu.” Do đó, nếu một văn bản pháp quy có điều khoản chưa rõ ràng, chưa dễ hiểu thì phải được sửa đổi.
Khoản 1 điều 9 luật số 17/2008/QH12: “… Văn bản quy phạm pháp luật chỉ được sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ hoặc bãi bỏ bằng văn bản quy phạm pháp luật của chính cơ quan nhà nước đã ban hành văn bản đó …” Do đó, nếu TCT cho rằng TT của BTC là chưa rõ ràng, có nhiều cách hiểu khác nhau nên tự quy định những nội dung gọi là “cụ thể hóa” thì có khả năng những quy định này sẽ bị vô hiệu hóa nếu nó làm sai lệch nội dung hoặc dẫn đến kết quả khác khi áp dụng thêm quy định “cụ thể hóa” đó để thi hành TT.
Dựa những cơ sở nêu trên, ta hãy xem xét điều 25 TT 153, nội dung trả lời câu hỏi số 26 trong thông báo số 290/TB-TCT
Về điều 25 TT 153:
Nếu chỉ xét riêng điều 25 TT 153 thôi, ta thấy điều này rất rõ ràng, chỉ có một cách hiểu thôi. Hơn nữa, điều 25 TT 153 không phải là một điều khoản “đơn độc”, mà nó quan hệ chặt chẽ với khỏan 3b điều 33 và khoản 2e điều 21 của NĐ51 trong việc xử phạt vi phạm về báo cáo sử dụng hóa đơn. Mối quan hệ đó thể hiện ý đồ của những người soạn thảo và ban hành TT 153 mà chính họ là những người hiểu rõ nhất, chứ không phải là một sự thiếu sót ngẫu nhiên như “nhiều người” hiểu. Riêng theo tôi hiểu, vì mức xử phạt là rất nặng và vì việc nộp trễ hạn vài ngày không phải là điều quá quan trọng, nên điều 25 TT 153 không quy định thời hạn cho việc nộp BCSDHD là rất hợp lý, nhằm để tránh cho dn bị rủi ro cao bị phạt nặng. Thậm chí quy định như vậy vẫn còn khả tạo ra rủi ro cao cho dn, do đó điều khoản này có thể cần được sửa đổi thêm nữa.
Thông báo số 290/TB-TCT: Đây không phải là một văn bản pháp quy, mà chỉ là văn bản hướng dẫn. Những nội dung nào của nó phù hợp với (có cơ sở từ và có nội dung không trái với) những văn bản pháp quy có liên quan thì vẫn có hiệu lực thi hành, còn những nội dung nào không phù hợp thì không có hiệu lực thi hành. Chúng ta thường lầm lẫn khi xem những quy định của TCT là một phần của TT của BTC !
Về nội dung trả lời câu hỏi số 26 (mà cũng chẳng biết ai hỏi ?!) trong thông báo số 290/TB-TCT:
1. Hạn chót nộp báo cáo sdhd quý là ngày 20 … không có cơ sở rõ ràng từ bất cứ văn bản pháp quy nào cả. Nếu có chăng thì là từ luật quản lý thuế (khoản 2b điều 32) nếu xem báo cáo sử dụng hóa đơn quý là một phần của hồ sơ khai thuế quý. Khi đó hạn chót là ngày thứ 30 chứ không phải ngày thứ 20.
2. Giả sử ta xem quy định hạn chót ngày 20 này là hợp lý. Vậy thì quy định này cũng chỉ để … biết, chứ không thể áp dụng để xử phạt theo khoản 3b đều 33 NĐ 51 được, vì khoản này chỉ ghi là “… theo quy định”, có lẽ nào NĐ mà quy định xử phạt theo quy định của TCT ? còn theo quy định của TT 153 thì không hề có quy định nào về hạn chót hay nộp trễ hạn cả, ngoài việc nộp BCSDHD chung với tờ khai thuế GTGT tháng … Hơn nữa, khoản 2e điều 21 NĐ 51 về nghĩa vụ của doanh nghiệp cũng quy định: “… Báo cáo việc sử dụng hóa đơn cho cơ quan thuế quản lý trực tiếp theo quy định của Bộ Tài chính”. Không thể xem những văn bản của TCT là 1 phần của TT của BTC !
Tóm lại, quy định về xử phạm vi phạm báo cáo sử dụng hóa đơn rất đơn giản, rõ ràng vì nó chỉ gói gọn trong 3 điều khoản: khoản 2e điều 21 và khoản 3b điều 33 của NĐ 51 và điều 25 của TT 153 mà thôi.
Nếu bị phạt thì khiếu kiện như thế nào ?
1. Tại sao nên khiếu kiện ? Các lý do như sau: 1. Để gởi thông điệp đến TCT: Nếu TCT tiếp tục ra ban hành những quy định “tùy hứng” thì cấp dưới của mình có khả năng “được’ khiếu kiện dài dài. Gởi thông điệp đến cơ quan thuế ‘cấp dưới”: Nếu xem ‘cấp trên” cao hơn pháp luật thì cấp dưới cũng có khả năng “được” khiếu kiện. 2. Đó là việc hợp lý, hợp pháp và hiệu quả nhất để bảo vệ quyền lợi của mình. 3. Khiếu kiện thật ra không khó. Không nên sợ bị “trả thù” nếu các doanh nghiệp bị phạt oan đều khiếu kiện. Người nào sai người đó mới sợ.
2. Khiếu kiện như thế nào ?
Khiếu trước kiện sau: Phải khiếu nại trước mới có quyền kiện ra tòa. Nếu xui xẻo bị phạt thì trước hết dn nên chấp hành, sau đó khiếu nại, nếu khiếu nại không xong thì kiện ra tòa Khiếu nại lần 1 là khiếu nại quyết định phạt đầu tiên, được gởi đến cơ quan ra quyết định, KN lần 2 là khiếu nại quyết định giải quyết khiếu nại lần 1, được gởi đến cơ quan cấp trên trực tiếp. Có thể kiện ra tòa án sau bất cứ lần khiếu nại không thành công nào. Nội dung khiếu nại cần có: Khiếu nại quyết định nào, quyết định đó sai chỗ nào, tại sao sai, yêu cầu giải quyết như thế nào … Khiếu nại cần có lập luận và phải dựa trên cơ sở những hệ thống văn bản pháp quy có liên quan đến mỗi lập luận. Đơn khiếu nại có thể do dn tự viết. Kiện ra tòa thì phức tạp hơn, nên cần tư vấn luật sư. Có thể chỉ cần nhờ luật sư viết đơn kiện, chuẩn bị các chứng cứ, lập luận và tư vấn các trình tự, thủ tục cần thiết tại phiên xử mà không cần luật sư có mặt tại phiên xử cũng được. Chỉ cần khiếu nại đồng loạt là cũng đủ cho “họ” thấy vấn đề rùi, chưa cần tới kiện ra tòa đâu ! Nếu thuế không nhận đơn khiếu nại, dn nên gởi qua đường bưu điện.