Doanh nghiệp quỵt tiền BHXH: Cần xử lý hình sự
Vấn đề pháp lý hiện đang được nhiều giới tranh luận gắt gao là tại sao không truy tố hình sự người đại diện pháp luật của doanh nghiệp DN chiếm dụng tiền bảo hiểm xã hội BHXH?
Nói "dân sự" là “chưa hợp đạo lý”
Theo BHXH TP.HCM, trong số hàng trăm đơn vị, hầu hết là công ty TNHH, nợ BHXH quá hạn (trên 6 tháng), có khoảng 40 doanh nghiệp (DN) nợ từ 200 triệu đồng trở lên. Các DN nợ lớn và nợ dai trong số này có Công ty may F.L tại Củ Chi, vốn 100% của Hàn Quốc (HQ), nợ trên 1 tỉ đồng, Công ty P.P (Q.9, HQ) nợ hơn 500 triệu đồng, Công ty V.SIC (Q.5, Singapore) nợ hơn 300 triệu đồng. Hai công ty vốn trong nước là Công ty dịch vụ M (Q.Bình Tân) nợ trên 500 triệu, Công ty H.T (Q.8) nợ xấp xỉ 300 triệu đồng... Đây chỉ là một phần trong tổng số 1.800 tỉ đồng BHXH mà các DN trong cả nước chiếm giữ.
Trao đổi với phóng viên, ông Lê Thành Tâm - Giám đốc Sở LĐ-TB-XH TP.HCM cho rằng, chỉ cần chiếm đoạt của người khác năm, bảy trăm ngàn đồng là đã bị khởi tố, xử phạt tù. Trong khi đó DN bỏ túi hàng tỉ đồng, trong đó chiếm đoạt riêng của mỗi công nhân 6% tiền lương hằng tháng của họ (trong tổng số 23% tiền lương công nhân mà DN phải trích đóng cho BHXH), gây hậu quả nặng nề cho đời sống vật chất, tinh thần của hàng ngàn công nhân nhưng các cơ quan chức năng lại bó tay. “Ngành LĐ-TB-XH hằng năm xử phạt hàng trăm đơn vị vi phạm pháp luật lao động, mỗi đơn vị vi phạm chỉ bị phạt hành chính 1 lần trong 1 năm và mỗi lần phạt tối đa không quá 20 triệu đồng cho hành vi chiếm dụng tiền BHXH. Xử phạt hành chính như vậy rõ ràng không hiệu quả và không có sức răn đe, chẳng khác nào “phủi bụi”, các DN không ngán”, ông Tâm bức xúc.
Tương tự, ông Cao Văn Sang - Giám đốc BHXH TP.HCM cũng cho rằng “khởi kiện” ra tòa dân sự đối với hành vi chiếm dụng là cần thiết và đúng luật, nhưng việc các cơ quan chức năng kết luận hành vi chiếm dụng tiền BHXH không đủ cơ sở khởi tố hình sự là chưa hợp đạo lý. Do tiền BHXH của người lao động bị chiếm dụng, nên họ sẽ không có sổ BHXH, không được Nhà nước chăm lo khi ốm đau, thai sản, bị tai nạn lao động... Hành vi cố tình chiếm dụng tiền BHXH gây thiệt hại nghiêm trọng cho người lao động.
Đối với cán bộ, nhân viên cơ quan BHXH có trách nhiệm đôn đốc thu tiền BHXH mà thiếu trách nhiệm để doanh nghiệp nợ đọng tiền BHXH thì phải chịu trách nhiệm kỷ luật hành chính; còn nếu họ thông đồng với DN để chiếm giữ sử dụng trái phép, tham ô tiền BHXH thì cũng phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự với vai trò đồng phạm
Luật sư Trương Xuân Tám
Đồng quan điểm này, tiến sĩ Trần Du Lịch - Phó trưởng đoàn Đại biểu Quốc hội TP.HCM cho rằng, tiền BHXH của công nhân nên chia ra làm hai phần: 17% là tiền của chủ doanh nghiệp và 6% là tiền của công nhân. Số tiền 6% mà DN thu của công nhân rồi chiếm dụng không nộp cho BHXH phải được coi là hành vi nghiêm trọng phải bị xử lý hình sự.
Đủ cơ sở để xử lý hình sự
Dưới góc độ phân tích các điều khoản của luật thì nhiều ý kiến cho rằng hoàn toàn có thể khởi tố hình sự đối với hành vi chiếm dụng tiền BHXH. Chi tiết hơn, luật sư Trương Xuân Tám, Ủy viên Hội đồng Luật sư toàn quốc, Phó chủ nhiệm Đoàn luật sư tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu phân tích: Nếu các doanh nghiệp do khó khăn thật sự mà chưa đóng được tiền BHXH, thì dù số tiền nợ nhiều bao nhiêu cũng chỉ là trách nhiệm dân sự, vì Bộ luật Hình sự không có điều luật nào quy định việc “nợ” tiền BHXH là tội phạm. Trường hợp này, chỉ có thể khởi kiện DN nợ tiền BHXH ra tòa dân sự để yêu cầu thanh toán tiền nợ gốc và lãi. Khi khởi kiện, BHXH có thể yêu cầu phong tỏa tài khoản ngân hàng hoặc kê biên tài sản khác của DN nhằm đảm bảo thi hành các khoản nợ đọng tiền BHXH. Chế tài áp dụng với các doanh nghiệp nợ tiền BHXH hiện nay mới chỉ là phạt hành chính, yêu cầu ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, kho bạc nhà nước có trách nhiệm trích tiền từ tài khoản tiền gửi của người sử dụng lao động để nộp số tiền chưa đóng, chậm đóng và tiền lãi (Điều 138 Luật BHXH).
Tuy nhiên, nhìn dưới góc độ khác như trường hợp Công ty Kwang Nam, hằng tháng DN này đã trích 6% tiền lương của công nhân nói là “để đóng BHXH”. Người lao động tin tưởng DN nên đã ủy quyền cho DN thay mặt mình nộp BHXH. Thế nhưng, từ những năm 2003 đến 2008, DN này đã lợi dụng lòng tin của người lao động chiếm dụng số tiền này sử dụng vào mục đích khác đến nỗi hiện nay chỉ thu hồi được 1,3 tỉ đồng trong tổng số 7,2 tỉ đồng, trừ đi 17% do DN khó khăn phải nợ, thì số tiền còn lại đã được sử dụng vào mục đích gì? Đang nằm ở đâu?... Cần phải điều tra làm rõ. Rõ ràng, DN đã trích thu 6% rồi nhưng lại cố tình chiếm giữ để sử dụng trái phép là có dấu hiệu của tội “sử dụng trái phép tài sản” (Điều 142 Bộ luật Hình sự); hoặc quá trình điều tra cho thấy có hành vi chiếm đoạt chia chác nhau thì phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “tham ô tài sản” (Điều 278 Bộ luật Hình sự).
Tương tự, luật sư Trương Lê Minh Trí, Đoàn luật sư tỉnh Đồng Nai nói: “Theo Điều 138 Luật BHXH, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật về BHXH như: không đóng BHXH, đóng không đúng thời gian quy định, đóng không đúng mức quy định, đóng không đủ số người thuộc diện tham gia BHXH thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử phạt vi phạm hành chính, xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật. Tuy Bộ luật Hình sự không quy định tội danh cụ thể nào liên quan đến BHXH nhưng hoàn toàn có thể vận dụng để xử lý hình sự trong trường hợp vi phạm nghiêm trọng. Đối với cơ quan BHXH thì DN là một pháp nhân “nợ” tiền BHXH chỉ có thể khởi kiện dân sự để thu hồi số nợ, nhưng đối với người lao động thì ban giám đốc, người đại diện trước pháp luật và kế toán trưởng là những người có những quyết định chiếm giữ số tiền 6% trích từ lương của người lao động giữ lại mà không nộp cho BHXH theo quy định là hành vi trái pháp luật. Đây là hành vi “chiếm giữ trái phép tài sản” (Điều 141 Bộ luật Hình sự). Người lao động chính là bị hại trong vụ án bị xâm phạm nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp. Cơ quan điều tra phải khởi tố vụ án, khởi tố bị can để điều tra về hành vi này. Quá trình điều tra nếu thấy các đối tượng này có những hành vi khác, cấu thành tội danh khác thì chuyển tội danh để xử lý cho phù hợp”.
Nguyên Thủy - Lê Nga - thanhnien.com.vn
Vấn đề pháp lý hiện đang được nhiều giới tranh luận gắt gao là tại sao không truy tố hình sự người đại diện pháp luật của doanh nghiệp DN chiếm dụng tiền bảo hiểm xã hội BHXH?
Nói "dân sự" là “chưa hợp đạo lý”
Theo BHXH TP.HCM, trong số hàng trăm đơn vị, hầu hết là công ty TNHH, nợ BHXH quá hạn (trên 6 tháng), có khoảng 40 doanh nghiệp (DN) nợ từ 200 triệu đồng trở lên. Các DN nợ lớn và nợ dai trong số này có Công ty may F.L tại Củ Chi, vốn 100% của Hàn Quốc (HQ), nợ trên 1 tỉ đồng, Công ty P.P (Q.9, HQ) nợ hơn 500 triệu đồng, Công ty V.SIC (Q.5, Singapore) nợ hơn 300 triệu đồng. Hai công ty vốn trong nước là Công ty dịch vụ M (Q.Bình Tân) nợ trên 500 triệu, Công ty H.T (Q.8) nợ xấp xỉ 300 triệu đồng... Đây chỉ là một phần trong tổng số 1.800 tỉ đồng BHXH mà các DN trong cả nước chiếm giữ.
Trao đổi với phóng viên, ông Lê Thành Tâm - Giám đốc Sở LĐ-TB-XH TP.HCM cho rằng, chỉ cần chiếm đoạt của người khác năm, bảy trăm ngàn đồng là đã bị khởi tố, xử phạt tù. Trong khi đó DN bỏ túi hàng tỉ đồng, trong đó chiếm đoạt riêng của mỗi công nhân 6% tiền lương hằng tháng của họ (trong tổng số 23% tiền lương công nhân mà DN phải trích đóng cho BHXH), gây hậu quả nặng nề cho đời sống vật chất, tinh thần của hàng ngàn công nhân nhưng các cơ quan chức năng lại bó tay. “Ngành LĐ-TB-XH hằng năm xử phạt hàng trăm đơn vị vi phạm pháp luật lao động, mỗi đơn vị vi phạm chỉ bị phạt hành chính 1 lần trong 1 năm và mỗi lần phạt tối đa không quá 20 triệu đồng cho hành vi chiếm dụng tiền BHXH. Xử phạt hành chính như vậy rõ ràng không hiệu quả và không có sức răn đe, chẳng khác nào “phủi bụi”, các DN không ngán”, ông Tâm bức xúc.
Tương tự, ông Cao Văn Sang - Giám đốc BHXH TP.HCM cũng cho rằng “khởi kiện” ra tòa dân sự đối với hành vi chiếm dụng là cần thiết và đúng luật, nhưng việc các cơ quan chức năng kết luận hành vi chiếm dụng tiền BHXH không đủ cơ sở khởi tố hình sự là chưa hợp đạo lý. Do tiền BHXH của người lao động bị chiếm dụng, nên họ sẽ không có sổ BHXH, không được Nhà nước chăm lo khi ốm đau, thai sản, bị tai nạn lao động... Hành vi cố tình chiếm dụng tiền BHXH gây thiệt hại nghiêm trọng cho người lao động.
Đối với cán bộ, nhân viên cơ quan BHXH có trách nhiệm đôn đốc thu tiền BHXH mà thiếu trách nhiệm để doanh nghiệp nợ đọng tiền BHXH thì phải chịu trách nhiệm kỷ luật hành chính; còn nếu họ thông đồng với DN để chiếm giữ sử dụng trái phép, tham ô tiền BHXH thì cũng phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự với vai trò đồng phạm
Luật sư Trương Xuân Tám
Đồng quan điểm này, tiến sĩ Trần Du Lịch - Phó trưởng đoàn Đại biểu Quốc hội TP.HCM cho rằng, tiền BHXH của công nhân nên chia ra làm hai phần: 17% là tiền của chủ doanh nghiệp và 6% là tiền của công nhân. Số tiền 6% mà DN thu của công nhân rồi chiếm dụng không nộp cho BHXH phải được coi là hành vi nghiêm trọng phải bị xử lý hình sự.
Đủ cơ sở để xử lý hình sự
Dưới góc độ phân tích các điều khoản của luật thì nhiều ý kiến cho rằng hoàn toàn có thể khởi tố hình sự đối với hành vi chiếm dụng tiền BHXH. Chi tiết hơn, luật sư Trương Xuân Tám, Ủy viên Hội đồng Luật sư toàn quốc, Phó chủ nhiệm Đoàn luật sư tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu phân tích: Nếu các doanh nghiệp do khó khăn thật sự mà chưa đóng được tiền BHXH, thì dù số tiền nợ nhiều bao nhiêu cũng chỉ là trách nhiệm dân sự, vì Bộ luật Hình sự không có điều luật nào quy định việc “nợ” tiền BHXH là tội phạm. Trường hợp này, chỉ có thể khởi kiện DN nợ tiền BHXH ra tòa dân sự để yêu cầu thanh toán tiền nợ gốc và lãi. Khi khởi kiện, BHXH có thể yêu cầu phong tỏa tài khoản ngân hàng hoặc kê biên tài sản khác của DN nhằm đảm bảo thi hành các khoản nợ đọng tiền BHXH. Chế tài áp dụng với các doanh nghiệp nợ tiền BHXH hiện nay mới chỉ là phạt hành chính, yêu cầu ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, kho bạc nhà nước có trách nhiệm trích tiền từ tài khoản tiền gửi của người sử dụng lao động để nộp số tiền chưa đóng, chậm đóng và tiền lãi (Điều 138 Luật BHXH).
Tuy nhiên, nhìn dưới góc độ khác như trường hợp Công ty Kwang Nam, hằng tháng DN này đã trích 6% tiền lương của công nhân nói là “để đóng BHXH”. Người lao động tin tưởng DN nên đã ủy quyền cho DN thay mặt mình nộp BHXH. Thế nhưng, từ những năm 2003 đến 2008, DN này đã lợi dụng lòng tin của người lao động chiếm dụng số tiền này sử dụng vào mục đích khác đến nỗi hiện nay chỉ thu hồi được 1,3 tỉ đồng trong tổng số 7,2 tỉ đồng, trừ đi 17% do DN khó khăn phải nợ, thì số tiền còn lại đã được sử dụng vào mục đích gì? Đang nằm ở đâu?... Cần phải điều tra làm rõ. Rõ ràng, DN đã trích thu 6% rồi nhưng lại cố tình chiếm giữ để sử dụng trái phép là có dấu hiệu của tội “sử dụng trái phép tài sản” (Điều 142 Bộ luật Hình sự); hoặc quá trình điều tra cho thấy có hành vi chiếm đoạt chia chác nhau thì phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “tham ô tài sản” (Điều 278 Bộ luật Hình sự).
Tương tự, luật sư Trương Lê Minh Trí, Đoàn luật sư tỉnh Đồng Nai nói: “Theo Điều 138 Luật BHXH, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật về BHXH như: không đóng BHXH, đóng không đúng thời gian quy định, đóng không đúng mức quy định, đóng không đủ số người thuộc diện tham gia BHXH thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử phạt vi phạm hành chính, xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật. Tuy Bộ luật Hình sự không quy định tội danh cụ thể nào liên quan đến BHXH nhưng hoàn toàn có thể vận dụng để xử lý hình sự trong trường hợp vi phạm nghiêm trọng. Đối với cơ quan BHXH thì DN là một pháp nhân “nợ” tiền BHXH chỉ có thể khởi kiện dân sự để thu hồi số nợ, nhưng đối với người lao động thì ban giám đốc, người đại diện trước pháp luật và kế toán trưởng là những người có những quyết định chiếm giữ số tiền 6% trích từ lương của người lao động giữ lại mà không nộp cho BHXH theo quy định là hành vi trái pháp luật. Đây là hành vi “chiếm giữ trái phép tài sản” (Điều 141 Bộ luật Hình sự). Người lao động chính là bị hại trong vụ án bị xâm phạm nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp. Cơ quan điều tra phải khởi tố vụ án, khởi tố bị can để điều tra về hành vi này. Quá trình điều tra nếu thấy các đối tượng này có những hành vi khác, cấu thành tội danh khác thì chuyển tội danh để xử lý cho phù hợp”.
Nguyên Thủy - Lê Nga - thanhnien.com.vn