Sửa đổi, bổ sung Luật thuế TTĐB số 27/2008/QH12 năm 2016

Son.Tran

Member
Hội viên mới
Ngày 06/4/2016, tại kỳ họp thứ 11, Quốc hội Khoá XIII đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế giá trị gia tăng, Luật thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật quản lý thuế. Với hiệu lực thi hành sớm kể từ ngày 01/07/2016, Luật thể hiện các thông điệp chính sách nhằm đơn giản công tác quản lý thuế, tăng tính khả thi trong tuân thủ, đồng thời bảo vệ doanh nghiệp Việt Nam một cách hợp pháp trong bối cảnh hội nhập sâu hơn từ năm 2018. Tạp chí Thuế nhà nước trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc những nội dung chính của đạo luật này.

Tiếp theo nội dung sửa đổi về thuế suất và lộ trình áp dụng thuế suất đối với một số mặt hàng như rượu, bia, thuốc lá (đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 70/2014/QH13), việc sửa đổi lần này có mục tiêu lớn hơn. Theo đó, sẽ xây dựng môi trường khi doanh bình đẳng, bảo vệ hợp pháp hàng hoá chịu thuế TTĐB được sản xuất trong nước, khắc phục các “lỗ hổng chính sách” từ thực tiễn quản lý hàng nhập khẩu, đồng thời định hướng tiêu dùng mặt hàng ôtô du lịch cá nhân dưới 24 chỗ ngồi:

Một là, sửa quy định về giá tính thuế (quy định tại điều 6 Luật thuế TTĐB): Đây là nội dung quan trọng nhất và được rất nhiều ý kiến trao đổi tại diễn đàn Quốc hội cũng như có sự tranh luận gay gắt giữa các hiệp hội doanh nghiệp. Quy định mới sẽ bảo đảm sự bình đẳng về giá tính thuế, cách tính thuế và mức thuế giữa hàng hoá (thuộc diện chịu thuế TTĐB) được sản xuất tại Việt Nam với hàng hoá cùng loại được nhập khẩu. Với mục tiêu xây dựng môi trường khi doanh bình đẳng, bảo vệ hợp pháp hàng hoá chịu thuế TTĐB được sản xuất trong nước, khắc phục các bất cập trong chính sách, hạn chế tối đa sự lợi dụng tại khâu nhập khẩu, Luật quy định giá tính thuế TTĐB đối với hàng hóa nhập khẩu là giá do cơ sở nhập khẩu bán ra như đang áp dụng đối với hàng hóa sản xuất trong nước. Thay cho quy định lâu nay đang thực hiện là tính thuế TTĐB trên giá CIF (giá nhập khẩu) cộng với (+) thuế nhập khẩu, các doanh nghiệp sản xuất trong nước sẽ được bảo đảm bình đẳng với doanh nghiệp nước ngoài vì sẽ khắc phục được tình trạng lâu nay là khai giá thấp trên hợp đồng ngoại, khai thấp trị giá hải quan để trốn tránh các loại thuế tại khâu nhập khẩu, bao gồm cả thuế NK, thuế TTĐB và thuế GTGT.

Hai là, Luật sửa đổi lần này có quy định mới nhằm ngăn ngừa việc né tránh thuế TTĐB của các doanh nghiệp sử dụng mô hình tổ chức công ty mẹ, công ty con, mô hình liên kết, công ty sở hữu chéo,… vừa thực hiện hành vi chuyển giá để né thuế TTĐB tại khâu đầu, vừa dịch chuyển lãi sang các khâu sau thông qua việc quy định mức giá bán giữa các công ty trong nhóm liên kết. Quy định mới là: “Trường hợp hàng hóa chịu thuế tiêu thụ đặc biệt được bán cho cơ sở kinh doanh thương mại là cơ sở có quan hệ công ty mẹ, công ty con; hoặc mua/bán giữa các công ty con trong cùng công ty mẹ với cơ sở nhập khẩu, cơ sở sản xuất; hoặc mua/bán giữa cơ sở kinh doanh thương mại mà có mối quan hệ liên kết với cơ sở sản xuất, cơ sở nhập khẩu thì giá tính thuế tiêu thụ đặc biệt không được thấp hơn tỷ lệ % so với giá bình quân của các cơ sở kinh doanh thương mại mua trực tiếp của cơ sở sản xuất, nhập khẩu bán ra theo quy định của Chính phủ”. Căn cứ vào quy định này, khi Chính phủ ban hành Nghị định hướng dẫn thi hành Luật sẽ có quy định cụ thể về tỷ lệ % áp dụng phù hợp với đặc điểm của từng loại mặt hàng (ví dụ tỷ lệ % chiết khấu trong khâu thương mại của mặt hàng rượu bia sẽ phải cao hơn tỷ lệ % áp dụng đối với mặt hàng ô tô, khác với tỷ lệ % quy định đối với mặt hàng thuốc lá.

Ba là, sửa đổi quy định về biểu thuế, mức thuế TTĐB áp dụng đối với mặt hàng ô tô du lịch dưới 24 chỗ ngồi (sửa quy định tại Khoản 4, Mục I Biểu thuế tiêu thụ đặc biệt quy định tại Điều 7 của Luật thuế TTĐB số 70/2014/QH13) nhằm mục tiêu định hướng tiêu dùng, góp phần bảo vệ môi trường. Cụ thể như sau:

(i)- Luật số 70/2014/QH13 quy định mức thuế suất TTĐB (45%, 50% và 60%) áp dụng đối với mặt hàng ô tô du lịch chở người dưới 24 chỗ ngồi theo các tiêu chí: mức tiêu hao nhiên liệu qua dung tích xi lanh (cm3); số chỗ ngồi gắn với mục đích sử dụng xe và theo loại nhiêu liệu sử dụng có tác động ảnh hưởng đến môi trường. Theo đó, loại xe chở người dưới 10 chỗ ngồi thì áp dụng mức thuế suất 45% đối với loại xe có dung tích xi lanh từ 2,000 cm3 trở xuống; áp thuế suất 50% đối với xe có dung tích xi lanh từ 2,000 cm3 đến dưới 3,000 cm3; đối với loại xe có dung tích xi lanh từ 3,000 cm3 trở lên thì áp dụng thuế suất cao nhất là 60%.

Đối với loại xe chở người từ 10 đến dưới 16 chỗ ngồi áp dụng thuế suất 30%; và mức thuế 15% áp dụng đối với xe từ 16 đến dưới 24 chỗ ngồi và xe được thiết kế vừa chở người kết hợp vừa chở hàng.

Đối với các loại xe chở người mà sử dụng năng lượng chạy bằng xăng kết hợp năng lượng điện, năng lượng sinh học, trong đó tỷ trọng xăng sử dụng không quá 70% số năng lượng sử dụng thì áp dụng mức thuế suất thấp hơn, chỉ bằng 0,7 mức thuế suất của loại xe chạy bằng xăng mà có cùng dung tích xi lanh tương ứng (ví dụ 35% đối với xe có dung tích xi lanh từ 2,000 cm3 đến dưới 3,000 cm3 ; nếu cùng dung tích xi lanh này mà là xe chạy xăng thì áp thuế 50%).

(ii)- Luật sửa đổi ngày 06/4/2016 tuy vẫn giữ nguyên tắc quy định mức thuế suất phân biệt theo loại xe với các tiêu chí nêu trên nhưng thực hiện phân loại chi tiết hơn mức tiêu hao nhiên liệu qua chỉ số dung tích xi lanh và có quy định cụ thể lộ trình áp dụng cho 2 giai đoạn trước và sau 2018 (là năm hết lộ trình cắt giảm thuế nhập khẩu theo cam kết tự do hoá thương mại đã ký kết).

Về số lượng mức thuế suất đối với xe ô tô chở người dưới 24 chỗ ngồi sẽ bao gồm 14 mức thuế suất cơ bản, trong đó thuế suất thấp nhất là 5% và cao nhất là 150%. Loại xe có dung tích nhỏ hơn, tiêu hao năng lượng ít hơn sẽ được áp mức thuế thấp hơn và được giảm tiếp so với Luật hiện hành, do vậy mà những người có mức thu nhập trung bình khá trở xuống có thêm cơ hội sở hữu ô tô.

Đối với loại xe có du.ng tích xi lanh từ 2,000 cm3 trở lên, Luật quy định nhiều mức thuế cao hơn, chi tiết hơn và tăng dần đến mức thuế suất cao nhất là 150%. Ví dụ loại xe có dung tích xi lanh từ trên 2,500 cm3 đến 3,000 cm3 sẽ áp mức thuế suất 55% trong thời gian từ 01/7/2016 đến hết 31/12/2017 và kể từ 01/01/2018 sẽ áp mức thuế 60%. Đối với xe có dung tích xi lanh từ trên 3,000 cm3 đến 4,000 cm3 thì áp dụng ngay mức thuế suất 90% từ 01/7/2016. Tiếp theo, với mỗi 1,000 cm3 tăng thêm của dung tích xi lanh thì thuế suất được tăng thêm 20% tương ứng; loại xe có dung tích xi lanh trên 6,000 cm3 thì bị áp đặt mức thuế suất cao nhất (150%).

Bên cạnh đó, với mục tiêu định hướng khuyến khích sử dụng năng lượng sinh học nhằm bảo đảm thân thiện với môi trường, giảm thiểu ô nhiễm, Luật có quy định áp mức thuế suất đặc biệt thấp đối với loại xe sử dụng năng lượng sinh học (chỉ bằng ½ mức thuế suất cơ bản đối với xe chạy bằng xăng có cùng mức dung tích xi lanh).

Cùng với quy định bổ sung cụ thể các mức thuế suất chi tiết, ứng với lộ trình hội nhập trong Biểu thuế, Luật sửa đổi lần này có bổ sung thêm vào diện áp thuế đối với các mặt hàng mới là: ôtô chạy bằng hoàn toàn năng lượng sinh học được quy định tại các dòng thuế 4(e): Dòng thuế 4(g) quy định mức thuế ôtô chạy bằng điện; và dòng thuế 4(h) áp thuế đối với xe Mô-tô-hôm.

Biểu thuế TTĐB áp dụng đối với ôtô và mô-tô-hôm từ ngày 01/7/2016

Nội dung mới (chữ in nghiêng) theo quy định tại Khoản 2, Điều 2 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế giá trị gia tăng, Luật thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật quản lý thuế ngày 06/4/2016

19_4_bieutrongThueGTGT.jpg


Nguồn: Tổng Cục Thuế
 

CẨM NANG KẾ TOÁN TRƯỞNG


Liên hệ: 090.6969.247

KÊNH YOUTUBE DKT

Kỹ thuật giải trình thanh tra BHXH

Đăng ký kênh nhé cả nhà

SÁCH QUYẾT TOÁN THUẾ


Liên hệ: 090.6969.247

Top