Để các bạn có cái nhìn rõ hơn trong việc sửa đổi của Luật thuế TNDN tôi xin post lên đây đề cương giới thiệu Luật thuế TNDN cho mọi người tham khảo:
(Tài liệu được biên soạn bởi Vụ phổ biến, giáo dục pháp luật)
I. SỰ CẦN THIẾT BAN HÀNH LUẬT THUẾ THU NHẬP DOANH NGHIỆP (SỬA ĐỔI)
Luật thuế thu nhập doanh nghiệp hiện hành được Quốc hội khoá XI thông qua ngày 17 tháng 6 năm 2003 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2004 để thay thế cho Luật thuế thu nhập doanh nghiệp (1997). Qua tổng kết, đánh giá 4 năm thực hiện Luật cho thấy: Luật thuế thu nhập doanh nghiệp hiện hành đã đạt được mục tiêu đề ra, góp phần quan trọng cải thiện môi trường đầu tư, đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn. Cụ thể:
- Thứ nhất, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp đã có tác động tích cực trong việc cải thiện môi trường đầu tư:
Luật thuế thu nhập doanh nghiệp hiện hành đã bỏ thu thuế bổ sung và hạ mức thuế từ 32% xuống 28% đối với doanh nghiệp trong nước; bãi bỏ thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài (3%, 5%, 7%) đối với nhà đầu tư nước ngoài để chuyển từ mức thuế thu nhập doanh nghiệp 25% sang áp dụng chung mức thuế 28% như các doanh nghiệp trong nước. Việc điều chỉnh giảm mức thuế đối với doanh nghiệp trong nước không chỉ tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp mới thành lập mà còn tạo thêm tiềm lực tài chính cho các doanh nghiệp đổi mới thiết bị, bổ sung vốn đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh. Theo số liệu thống kê năm 2006, chỉ tính riêng 45 Tập đoàn kinh tế, Tổng công ty nhà nước, vốn kinh doanh đã được tích luỹ, bổ sung thêm gần 5.300 tỷ đồng, quỹ đầu tư phát triển tăng gần 13.000 tỷ đồng và quỹ dự phòng tài chính để phòng ngừa rủi ro trong kinh doanh tăng khoảng 2.000 tỷ đồng.
Luật thuế thu nhập doanh nghiệp hiện hành cũng quy định chính sách ưu đãi trên cơ sở chọn mức ưu đãi thuế cao nhất trong Luật khuyến khích đầu tư trong nước và Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam để áp dụng chung cho doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đã khắc phục sự phân biệt đối xử trong ưu đãi đầu tư, tạo ra môi trường cạnh tranh bình đẳng, thúc đẩy đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài cùng phát triển, góp phần quan trọng vào tăng trưởng kinh tế cao trong những năm vừa qua.
- Thứ hai, góp phần bảo đảm nguồn thu quan trọng của ngân sách nhà nước
Mặc dù đã hạ mức thuế và áp dụng các mức ưu đãi cao nhưng số thu ngân sách nhà nước về thuế thu nhập doanh nghiệp vẫn bảo đảm tăng trưởng do có tác động cải thiện môi trường đầu tư, doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đều phát triển về số lượng, quy mô và hiệu quả kinh doanh, mức thuế hợp lý cùng với thay đổi cơ chế quản lý thuế tác động đến việc các doanh nghiệp tự giác tuân thủ tốt hơn...
Trong giai đoạn từ năm 2004 đến năm 2007, số thu thuế thu nhập doanh nghiệp (không kể thu từ dầu khí) đạt mức bình quân trên 30 ngàn tỷ đồng/năm với mức tăng trưởng bình quân hàng năm khoảng 16%. Luật thuế thu nhập doanh nghiệp đã góp phần bảo đảm nguồn thu quan trọng của ngân sách nhà nước, đáp ứng nhu cầu chi tiêu ngày càng tăng về đầu tư phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, củng cố an ninh, quốc phòng của đất nước.
- Thứ ba, thúc đẩy cải cách hành chính trong quản lý thuế và thực hiện ưu đãi đầu tư:
Luật thuế thu nhập doanh nghiệp áp dụng cơ chế doanh nghiệp tự tính, tự khai, tự chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính trung thực của số liệu đã kê khai thay cho cơ chế cơ quan thuế tính thuế, thông báo thuế, quyết toán thuế. Việc ban hành và thực thi Luật thuế thu nhập doanh nghiệp đã đánh dấu một bước tiến về cải cách thủ tục hành chính trong quản lý thuế và đầu tư khi đề cao trách nhiệm của doanh nghiệp trong việc lựa chọn, xác định điều kiện và mức ưu đãi thuế mà không cần giấy phép, giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư. Nhờ việc chuyển sang cơ chế mới, cơ quan thuế có điều kiện tập trung nguồn lực vào công tác tuyên truyền, hỗ trợ, kiểm tra, giám sát để giúp cho doanh nghiệp thực hiện tốt các quy định của pháp luật.
Bên cạnh những kết quả đạt được nêu trên, trong quá trình thực hiện và trước yêu cầu phát triển kinh tế xã hội trong giai đoạn tới, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp đã bộc lộ một số hạn chế, tồn tại như sau:
- Mức thuế suất 28% tuy phù hợp với tình hình thực tế khi ban hành nhưng đến nay chưa thực sự cạnh tranh trong thu hút đầu tư nước ngoài do các nước trong khu vực đã có sự điều chỉnh giảm;
- Ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp còn dàn trải, phức tạp, chưa phát huy hiệu quả phân bổ nguồn lực trong đầu tư để đáp ứng yêu cầu về phát triển kinh tế theo vùng và lãnh thổ, nhất là thu hút đầu tư vào các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn;
- Căn cứ tính thuế (bao gồm thu nhập chịu thuế, chi phí được trừ và không được trừ) chưa thực sự minh bạch, chưa phù hợp với thông lệ quốc tế;
- Một số nội dung của Luật đã được chuyển sang điều chỉnh tại các luật khác như Luật quản lý thuế, Luật thuế thu nhập cá nhân…
Vì vậy, để phát huy hơn nữa những ưu điểm của thuế thu nhập doanh nghiệp, khắc phục những tồn tại nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong giai đoạn tới, cần thiết phải sửa đổi Luật thuế thu nhập doanh nghiệp hiện hành. Do đó, ngày 03 tháng 8 năm 2008 tại kỳ họp thứ 3 Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XII đã thông qua Luật thu nhập doanh nghiệp (sửa đổi).
(Tài liệu được biên soạn bởi Vụ phổ biến, giáo dục pháp luật)
I. SỰ CẦN THIẾT BAN HÀNH LUẬT THUẾ THU NHẬP DOANH NGHIỆP (SỬA ĐỔI)
Luật thuế thu nhập doanh nghiệp hiện hành được Quốc hội khoá XI thông qua ngày 17 tháng 6 năm 2003 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2004 để thay thế cho Luật thuế thu nhập doanh nghiệp (1997). Qua tổng kết, đánh giá 4 năm thực hiện Luật cho thấy: Luật thuế thu nhập doanh nghiệp hiện hành đã đạt được mục tiêu đề ra, góp phần quan trọng cải thiện môi trường đầu tư, đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn. Cụ thể:
- Thứ nhất, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp đã có tác động tích cực trong việc cải thiện môi trường đầu tư:
Luật thuế thu nhập doanh nghiệp hiện hành đã bỏ thu thuế bổ sung và hạ mức thuế từ 32% xuống 28% đối với doanh nghiệp trong nước; bãi bỏ thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài (3%, 5%, 7%) đối với nhà đầu tư nước ngoài để chuyển từ mức thuế thu nhập doanh nghiệp 25% sang áp dụng chung mức thuế 28% như các doanh nghiệp trong nước. Việc điều chỉnh giảm mức thuế đối với doanh nghiệp trong nước không chỉ tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp mới thành lập mà còn tạo thêm tiềm lực tài chính cho các doanh nghiệp đổi mới thiết bị, bổ sung vốn đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh. Theo số liệu thống kê năm 2006, chỉ tính riêng 45 Tập đoàn kinh tế, Tổng công ty nhà nước, vốn kinh doanh đã được tích luỹ, bổ sung thêm gần 5.300 tỷ đồng, quỹ đầu tư phát triển tăng gần 13.000 tỷ đồng và quỹ dự phòng tài chính để phòng ngừa rủi ro trong kinh doanh tăng khoảng 2.000 tỷ đồng.
Luật thuế thu nhập doanh nghiệp hiện hành cũng quy định chính sách ưu đãi trên cơ sở chọn mức ưu đãi thuế cao nhất trong Luật khuyến khích đầu tư trong nước và Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam để áp dụng chung cho doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đã khắc phục sự phân biệt đối xử trong ưu đãi đầu tư, tạo ra môi trường cạnh tranh bình đẳng, thúc đẩy đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài cùng phát triển, góp phần quan trọng vào tăng trưởng kinh tế cao trong những năm vừa qua.
- Thứ hai, góp phần bảo đảm nguồn thu quan trọng của ngân sách nhà nước
Mặc dù đã hạ mức thuế và áp dụng các mức ưu đãi cao nhưng số thu ngân sách nhà nước về thuế thu nhập doanh nghiệp vẫn bảo đảm tăng trưởng do có tác động cải thiện môi trường đầu tư, doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đều phát triển về số lượng, quy mô và hiệu quả kinh doanh, mức thuế hợp lý cùng với thay đổi cơ chế quản lý thuế tác động đến việc các doanh nghiệp tự giác tuân thủ tốt hơn...
Trong giai đoạn từ năm 2004 đến năm 2007, số thu thuế thu nhập doanh nghiệp (không kể thu từ dầu khí) đạt mức bình quân trên 30 ngàn tỷ đồng/năm với mức tăng trưởng bình quân hàng năm khoảng 16%. Luật thuế thu nhập doanh nghiệp đã góp phần bảo đảm nguồn thu quan trọng của ngân sách nhà nước, đáp ứng nhu cầu chi tiêu ngày càng tăng về đầu tư phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, củng cố an ninh, quốc phòng của đất nước.
- Thứ ba, thúc đẩy cải cách hành chính trong quản lý thuế và thực hiện ưu đãi đầu tư:
Luật thuế thu nhập doanh nghiệp áp dụng cơ chế doanh nghiệp tự tính, tự khai, tự chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính trung thực của số liệu đã kê khai thay cho cơ chế cơ quan thuế tính thuế, thông báo thuế, quyết toán thuế. Việc ban hành và thực thi Luật thuế thu nhập doanh nghiệp đã đánh dấu một bước tiến về cải cách thủ tục hành chính trong quản lý thuế và đầu tư khi đề cao trách nhiệm của doanh nghiệp trong việc lựa chọn, xác định điều kiện và mức ưu đãi thuế mà không cần giấy phép, giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư. Nhờ việc chuyển sang cơ chế mới, cơ quan thuế có điều kiện tập trung nguồn lực vào công tác tuyên truyền, hỗ trợ, kiểm tra, giám sát để giúp cho doanh nghiệp thực hiện tốt các quy định của pháp luật.
Bên cạnh những kết quả đạt được nêu trên, trong quá trình thực hiện và trước yêu cầu phát triển kinh tế xã hội trong giai đoạn tới, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp đã bộc lộ một số hạn chế, tồn tại như sau:
- Mức thuế suất 28% tuy phù hợp với tình hình thực tế khi ban hành nhưng đến nay chưa thực sự cạnh tranh trong thu hút đầu tư nước ngoài do các nước trong khu vực đã có sự điều chỉnh giảm;
- Ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp còn dàn trải, phức tạp, chưa phát huy hiệu quả phân bổ nguồn lực trong đầu tư để đáp ứng yêu cầu về phát triển kinh tế theo vùng và lãnh thổ, nhất là thu hút đầu tư vào các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn;
- Căn cứ tính thuế (bao gồm thu nhập chịu thuế, chi phí được trừ và không được trừ) chưa thực sự minh bạch, chưa phù hợp với thông lệ quốc tế;
- Một số nội dung của Luật đã được chuyển sang điều chỉnh tại các luật khác như Luật quản lý thuế, Luật thuế thu nhập cá nhân…
Vì vậy, để phát huy hơn nữa những ưu điểm của thuế thu nhập doanh nghiệp, khắc phục những tồn tại nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong giai đoạn tới, cần thiết phải sửa đổi Luật thuế thu nhập doanh nghiệp hiện hành. Do đó, ngày 03 tháng 8 năm 2008 tại kỳ họp thứ 3 Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XII đã thông qua Luật thu nhập doanh nghiệp (sửa đổi).