làm sao đọc được báo cáo tài chính

hang_viet

New Member
Hội viên mới
e là thành viên mới hiện đang cần làm một báo cáo tài chính nộp cho thầy mà không bít dàn bài làm sao.
e thấy trên diễn đàn có mấy bài mà e ko đọc được .
hu hu.:confuse1:
e đc bi là khi phân tích báo cáo tài chính cần so sánh với số liệu trung bình của ngành .
hiện tại e đang làm về ngành ngân hàng mà không bít lấy mấy chỉ số trung bình ngành ở đâu .có ai biết chỉ dùm e.
 
Ðề: làm sao đọc được báo cáo tài chính

Chào bạn nha!!!!
Để đọc được một báo cáo tài chính trước hết bạn nên tìm hiểu các tài khoản chi tiết và hiểu được, biết được từ đâu có con số dư cuối cùng của các tài khoản đó và từ đó mới tính đến viêc xem xét đến bản cân đối kế toán, bản kết quả hoạt động kinh doanh. Trong bản cân đối kế toán bạn nên đọc trước các chỉ tiêu Tài Sản và Nguồn Vốn xem từng mục Tài sản ngắn hạn và tài sản dài hạn và những chỉ tiêu đó lấy từ tài khoản chi tiết nào để lên bản cân đối kế toán và từ bản cân đối kế toán bạn dùng các chỉ số phân tích báo cáo tái chính để tính và đánh giá nó có hiệu quả hay không ./.
Chào bạn chức bạn thành công
 
Ðề: làm sao đọc được báo cáo tài chính

Để tìm thêm tài liệu viết bài, bạn có thể truy cập vào thư viện các trường hoặc vào google gõ từ khóa, sau đó bạn sẽ tha hồ tìm kiếm tư liệu. Trước hết bạn nên hỏi các anh chị ở chỗ làm, họ sẽ cho bạn những lời khuyên hữu ích đó. CHÚC THÀNH CÔNG
 
Ðề: làm sao đọc được báo cáo tài chính

muốn đọc được báo cáo tái chính ,đều quan trọng là em phái nắm rỏ ,hiểu cụ thể được bảng cân đối số phát sinh khi nắm rỏ được vấn đề này em sẽ rất thuận tiện khi đọc báo cáo tài chính
 
Ðề: làm sao đọc được báo cáo tài chính

cũng rất đơn giản nếu bạn chịu khó đọc sách kế toán một chút bạn sẽ hiểu bản báo cáo tài chính gồm những gì và từ đó bạn làm lần lượt theo đó là ôn. Chúc bạn thành công
 
Ðề: làm sao đọc được báo cáo tài chính

cũng rất đơn giản nếu bạn chịu khó đọc sách kế toán một chút bạn sẽ hiểu bản báo cáo tài chính gồm những gì và từ đó bạn làm lần lượt theo đó là ôn. Chúc bạn thành công

HEY, không đơn giản như bạn nói đâu.Để hiểu được cần phải có thêm kiến thức thực tế nữa.
 
Ðề: làm sao đọc được báo cáo tài chính

e là thành viên mới hiện đang cần làm một báo cáo tài chính nộp cho thầy mà không bít dàn bài làm sao.
e thấy trên diễn đàn có mấy bài mà e ko đọc được .
hu hu.:confuse1:
e đc bi là khi phân tích báo cáo tài chính cần so sánh với số liệu trung bình của ngành .
hiện tại e đang làm về ngành ngân hàng mà không bít lấy mấy chỉ số trung bình ngành ở đâu .có ai biết chỉ dùm e.

1. Để đọc được Báo cáo Tài chính thì bạn phải biết về kế toán
2. Để hiểu về Báo cáo Tài chính thì bạn cần rất nhiều thứ:
- Phải biết về Kế toán
- Phải biết về tài chính
- Phải có kinh nghiệp thực tế
- Phải có đầu óc tổng hợp.....
 
Ðề: làm sao đọc được báo cáo tài chính

e là thành viên mới hiện đang cần làm một báo cáo tài chính nộp cho thầy mà không bít dàn bài làm sao.
e thấy trên diễn đàn có mấy bài mà e ko đọc được .
hu hu.:confuse1:
e đc bi là khi phân tích báo cáo tài chính cần so sánh với số liệu trung bình của ngành .
hiện tại e đang làm về ngành ngân hàng mà không bít lấy mấy chỉ số trung bình ngành ở đâu .có ai biết chỉ dùm e.

Hôm trc mình có đọc đc bài này không biết có giúp bạn đc không! Hãy thử đọc nó nhé:
Bảng cân đối kế toán
• Nó dùng để đánh giá doanh nghiệp đang tiến triển thế nào. Bạn có thể sử dụng bảng cân đối kế toán để đánh giá tình hình tài chính, nghĩa vụ trả nợ của doanh nghiệp của bạn.
• Nó rất hữu ích khi bạn nhìn vào khía cạnh lợi nhuận và chi phí bởi vì qua bảng cân đối kế toán bạn có được một bức tranh tổng thể
• Sử dụng bảng cân đối kế toán để đảm bảo một khoản vay: Khi bạn đi vay ngân hàng, các ngân hàng thường yêu cầu bạn nộp báo các kế toán để họ đánh giá khả năng hoàn trả nợ của bạn. Nếu bạn có một bàng cân đối kế toán tốt, bạn sẽ có nhiều cơ hội được vay vốn ngân hàng.
Bảng cân đối kế toán là một báo cáo tài chính ở một thời điểm nhất định. Nó là một bảng tóm tắt ngắn gọn về những gì mà doanh nghiệp có/sở hữu (tài sản) và những gì mà doanh nghiệp nợ (các khoản nợ) ở một thời điểm nhất định.
Bảng cân đối kế toán phải được lập theo mẫu dành cho DNNVV được Bộ Tài chính quy định.
Một bảng cân đối kế toán phải chỉ rõ tái sản cố định của doanh nghiệp (doanh nghiệp có cái gì), tài sản ngắn hạn (doanh nghiệp cho nợ những khoản nào), nợ ngắn hạn (những khoản doanh nghiệp nợ và phải trả trong thời gian ngắn), nợ dài hạn và vốn chủ sở hữu.
Tài sản cố định gồm:
• Tài sản hữu hình – nhà xưởng, đất đai, máy móc, máy tính, các tài sản vật chất khác
• Tài sản vô hình – uy tín, quyền sở hữu trí tuệ, phát minh sáng chế, thương hiệu, tên miền website, các khoản đầu tư dài hạn
Tài sản vãng lai là những tài sản ngắn hạn mà giá trị của chúng có thể dao động từ ngày này qua ngày khác, nó bao gồm:
• Cổ phiếu
• Bán thành phẩm
• Tiền nợ của khách hàng
• Tiền mặt tại ngân hàng
• Các khoản đầu tư ngắn hạn
• Các khoản trả trước – ví dụ tiền thuê
Các khoản nợ vãng lai là các khoản nợ phải trả trong vòng một năm của doanh nghiệp, nó bao gồm:
• Tiền nợ các nhà cung cấp
• Các khoản vay dài hạn, rút quá ở ngân hàng hoặc các khoản mục tài chính khác
• Thuế phải trả trong một năm
Các khoản nợ dài hạn, gồm:
• Các khoản nợ đến kỳ hạn sau một năm – các khoản vay hoặc tài chính đến hạn phải trả sau một năm
Vốn chủ sở hữu và dự trữ: vốn cổ phần và lợi nhuận để lại

2. Báo cáo kết quả kinh doanh(Báo cáo lãi lỗ)
Báo cáo kết quả kinh doanh hoặc báo cáo lãi lỗ cho bạn biết doanh nghiệp bạn kiếm được bao nhiêu tiền sau khi đã trừ đi hết chi phí. Báo cáo kết quả kinh doanh được đọc từ trên xuống và cho biết doanh thu và chi phí cho một khoảng thời gian nhất định. Một bảng báo cáo kết quả kinh doanh sẽ không chỉ ra những vấn đề như không đủ tiền mặt luân chuyển. bạn cần phải chuẩn bị Báo cáo lưu chuyển tiền tệ để xem bạn có vấn đề gì về việc không đủ tiền mặt để lưu chuyển trong quá trình hoạt động.
Bảng báo cáo kế hoạch kinh doanh, hay còn gọi là bảng báo cáo lãi lỗ, chỉ ra sự cân bằng giữa thu nhập (doanh thu) và chi phí trong từng kỳ.
Thu nhập thuần sẽ là kết quả của doanh thu bán hàng thuần trừ đi giá vốn hàng hoá hoặc giá vốn dịch vụ trong cùng kỳ. Đồng thời cũng được gọi là lãi gộp.
Thu nhập thuần hoặc lỗ thuần sẽ là kết quả của việc lấy thu nhập gộp từ hoạt động trừ đi những thu nhập khác, ví dụ như thu nhập từ tiền lãi.

3. Bảng báo cáo lưu chuyển tiền tệ
- Sử dụng dự báo dòng tiền mặt như một công cụ kinh doanh
Một bảng dự báo dòng tiền mặt có thể là một công cụ kinh doanh rất quan trọng nếu nó được sử dụng hiệu quả. Hãy nhớ rằng nó là một báo cáo động - bạn cần thay đổi và điều chỉnh nó thường xuyên phụ thuộc vào hoạt động kinh doanh, các khoản chi trả và nhu cầu của nhà cung cấp.
Việc thay đổi bảng dự báo này cũng rất hữu ích, thay dổi các con số về doanh số bán hàng, về mua sắm và chi phí nhân viên. Những thay đổi về luật pháp, lãi suất và thuế cũng ảnh hưởng đến bảng dự báo này.
Để có điều chỉnh về bảng dự báo tiền mặt, bạn cần:
• Xem xét các vấn đề có thể xảy ra và tìm giải pháp cho chúng
• Xác định bất cứ sự thiếu hụt tiền mặt tiềm ẩn nào và có những biện pháp phù hợp
• Đảm bảo bạn có đủ tiền mặt trước khi bạn định làm bất kỳ cam kết tài chính quan trọng nào
- Sử dụng dự báo tiền mặt để tránh kinh doanh….
Có một dự báo dòng tiền mặt chính xác sẽ đảm bảo cho bạn đạt được sự tăng trưởng ổn định mà không phải kinh doanh vượt mức. Bạn biết rằng khi bạn có đủ tài sản để mở rộng kinh doanh – và rất quan trọng nữa là khi bạn cần phải củng cố việc kinh doanh. Điều này giúp bạn đảm bảo cho nhân viên, khách hàng, nhà cung cấp đều hài lòng.
Một điều rất quan trọng là bạn đưa những dấu hiệu cảnh báo vào dự báo dòng tiền mặt của bạn. Ví dụ, nếu mức tiền mặt được dự báo sát với quyền được rút tiền, điều này chỉ ra rằng bạn nên cảnh giác và nên đưa dòng tiền mặt ở mức chấp nhận được.
Bảng báo cáo dòng tiền mặt bao gồm dòng tiền ra và dòng tiền vào
Trong quá trình kinh doanh, bạn sẽ có lượng tiền vào nhiều hơn lượng tiền ra. Điều này giúp bạn có được khoản dự trữ tiền mặt và bạn luôn phải tìm cách để khoảng cách giữa dòng tiền vào và dòng tiền ra được nới rộng, và bạn cam đoan với các nhà cho vay, các nhà đầu tư về tình hình khả quan của doanh nghiệp. Bảng báo cáo dòng tiền mặt thông thường gồm có:
Dòng tiền vào:
• Các khoản thanh toán của khách hàng cho việc mua sắm hàng hóa, dịch vụ
• Lãi tiền gửi từ ngân hàng
• Lãi suất tiết kiệm và đầu tư
• Đầu tư của cổ đông
Dòng tiền ra:
• Chi mua cổ phiếu, nguyên nhiên vật liệu thô hoặc các công cụ
• Chi trả lương, tiền thuê và các chi phí hoạt động hàng ngày
• Chi mua tài sản cố định – máy tính cá nhân, máy móc, thiết bị văn phòng,…
• Chi trả lợi tức
• Chi trả thuế thu nhập, thuế doanh nghiệp, thuế giá trị gia tăng và các thuế khác
Có rất nhiều các khoản chi khác bạn phải chi vào những ngày cố định như chi trả lương, các khoản nợ đến hạn trả và chi nộp thuế. Bạn phải luôn luôn ở trong trạng thái đáp ứng được các khoản chi, tránh bị phạt nặng hoặc tránh trường hợp công nhân bất mãn.
Quản lý nợ phải trả
Những khoản nợ phải trả xuất hiện khi bạn mua chịu sản phẩm dịch vụ. Đây là những sản phẩm dịch vụ mà công ty của bạn đã nhận được và sẽ phải trả trong tương lai.
Quản lý những khoản nợ phải trả này là việc rất quan trọng. Việc không trả được nợ sẽ đem đến những vấn đề rất nghiêm trọng cho công việc kinh doanh của bạn, kể cả việc phá sản. Vì vậy, cần thiết phải ghi chép chi tiết về những khoản mua, ngày phải thanh toán, và nguồn tài chính cho việc thanh toán.
Quản lý khoản phải thu
Khoản phải thu được hình thành khi công ty cho khách hàng mua nợ sản phẩm, dịch vụ. Đây là những sản phẩm, dịch vụ mà bạn đã cung cấp cho khách hàng và đang chờ thanh toán trong tương lai. Mua nợ được coi là những khoản phải thu khi bạn gửi hoá đơn cho khách hàng.
Quản lý các khoản phải thu rất quan trọng. Nếu khách hàng không thanh toán, công ty của bạn sẽ bị mất tiền. Ngoài ra, thời hạn thanh toán rất quan trọng, vì nó sẽ ảnh hưởng đến khả năng trả nợ và chi phí cho sản xuất của bạn. Cần phải ghi chép chi tiết việc bán hàng, ngày phải thanh toán để đảm bảo công ty nhận được các khoản phai thu đúng hạn.
Các chỉ số trong quản lý tài chính
1. Chỉ số hiện hành
Đây là từ chuyên môn để đánh giá khả năng "luân chuyển" của công ty bạn. Nói theo cách khác thì khả năng biến đổi từ tài sản sang tiền nhanh thế nào. Để tính chỉ số hiện hành, bạn lấy tài sản chia cho nợ. Nợ bao gồm những khoản bạn phải trả, bao gồm các khoản nợ và những hoá đơn chưa thanh toán cho người cung cấp. Tài sản bao gồm tất cả các khoản tiền mà bạn có, đồng thời cả hàng tồn kho: là những sản phẩm bạn chưa bán được, đang ở trong thời kỳ sản xuất, hoặc đã sẵn sàng để bán.
Nếu chỉ số hiện hành nhỏ hơn 1, có khả năng khó khăn để biến đổi từ tài sản sang tiền. Điều này cũng có nghĩa là công ty có thể dễ dàng bị phá sản, hoặc khả năng chịu rủi ro là rất cao.
Ghi nhớ: nếu bạn muốn tính chỉ số này, phải biết chọn thời điểm thích hợp. Ví dụ, không nên chọn thời điểm ngay trước khi trả một hoá đơn lớn.
2. Chỉ số nhanh
Chỉ số nhanh gần giống chỉ số hiện hành, ngoại trừ việc không bao gồm hàng tồn kho. Để tính chỉ số nhanh, bạn lấy tất cả tiền mặt và khoản phải thu (ví dụ, các khoản mà công ty khác nợ bạn) chia cho các khoản phải trả (ví dụ, tất cả số tiền mặt bạn nợ, bao gồm cả các khoản nợ và phí). Chỉ số này cho bạn biết khả năng trả các hoá đơn của công ty bạn nhanh đến mức nào. Nếu chỉ số của bạn là 1, công ty của bạn hoạt động rất tốt và có thể trả hết các hoá đơn rất nhanh.
Chỉ số quản lý kinh doanh
Lợi nhuận biên
Mặc dù có rất nhiều cách tính để quản lý kinh doanh, chỉ có một vài cách có ích. Một cách tính hữu dụng là lợi nhuận biên. Để tính, bạn lấy tổng doanh thu bán hàng của một năm chia cho tổng lợi nhuận (sau thuế). Nếu bạn nhân con số này với 100 để lấy số phần trăm, bạn có thể biết được bạn thu được bao nhiêu lợi nhuận cho mỗi sản phẩm bán được, hoặc cho 100.000VND bán sản phẩm.
Bạn có thể so sánh lợi nhuận biên của từng kỳ để biết được công việc kinh doanh của bạn có phát triển không, và để xác định những biến chuyển cơ bản. Bạn cũng có thể so sánh lợi nhuận biên của bạn với công ty khác trong cũng ngành hoặc khu vực. Bạn cũng có thể so sánh với các công ty cùng ngành ở nước ngoài để biết được sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế của công ty bạn.
Điểm hòa vốn là gì?
Điểm hoà vốn là một trong những khái niệm quan trọng và cơ bản trong công việc kinh doanh. Điểm hoà vốn được định nghĩa là doanh số bán hàng cần thiết để lợi nhuận bằng 0, hoặc "điểm bằng nhau". Nói cách khác, điểm hoà vốn là khi doanh thu bằng với chi phí.
Điểm hoà vốn được tính sử dụng công thức sau đây:
BEP = TFC / (SUP - VCUP)
trong đó,
BEP: điểm hoà vốn (số lượng sản phẩm)
TFC: tổng chi phí cố định
VCUP: chi phí biến đổi bình quân
SUP: lợi nhuận của mỗi sản phẩm
Chi phí cố định bao gồm tất cả những chi phí không biến đổi khi sản phẩm hoặc sản lượng thay đổi, ví dụ tiền thuê nhà, lương, và tiền điện thoại. Những chi phí này sẽ không thay đổi cho dù bạn sản xuất được sản phẩm.
Chi phí biến đổi bao gồm tất cả những chi phí sẽ biến đổi dựa trên lượng sản phẩm sản xuất được, ví dụ nguyên vật liệu. Số lượng sản phẩm tăng, sẽ sử dụng thêm nhiều nguyên vật liệu.
Kết quả của công thức này sẽ cho bạn biết bạn cần đạt được doanh thu bao nhiêu để đạt được điểm cân bằng. Doanh thu lớn hơn con số này có nghĩa là đã đem lại lợi nhuận cho công ty. Nếu bạn lấy số này chia cho giá bán của một sản phẩm, bạn có thể biết được cần phải bán được bao nhiêu sản phẩm để đạt được điểm cân bằng.
Phân tích điểm hoà vốn cần phải được thực hiện đối với tất cả các nguồn doanh thu. Ví dụ, nếu công ty bạn nhiều loại sản phẩm khác nhau, cần phải tính điểm hoà vốn cho từng loại sản phẩm. Điều này cho phép những người quản lý xác định được sản phẩm nào bán được và sản phẩm nào cần phải cải thiện.
Nếu việc bán một sản phẩm nào đó không tốt - không đạt được điểm cân bằng - cần phải hành động. Điều này có thể bao gồm nâng giá, giảm chi phí, hoặc có thể không sản xuất sản phẩm đó nữa. Ngoài ra, nếu một sản phẩm nào đó bán được, có thể tập trung vào để tăng thêm lợi nhuận.
 
Ðề: làm sao đọc được báo cáo tài chính

bạn nên biết rõ mục đích đọc báo cáo để làm gì?
 
Ðề: làm sao đọc được báo cáo tài chính

e là thành viên mới hiện đang cần làm một báo cáo tài chính nộp cho thầy mà không bít dàn bài làm sao.
e thấy trên diễn đàn có mấy bài mà e ko đọc được .
hu hu.:confuse1:
e đc bi là khi phân tích báo cáo tài chính cần so sánh với số liệu trung bình của ngành .
hiện tại e đang làm về ngành ngân hàng mà không bít lấy mấy chỉ số trung bình ngành ở đâu .có ai biết chỉ dùm e.

chỉ số trung bình ngành khó tìm lắm. bạn vào trang http://sbsc.com.vn/ có một số chỉ số trung bình ngành. hồi tớ làm bài tập phân tích báo cáo tài chính tớ cũng lấy ở đấy.
-----------------------------------------------------------------------------------------
HEY, không đơn giản như bạn nói đâu.Để hiểu được cần phải có thêm kiến thức thực tế nữa.

tớ cũng đồng ý vs ý kiến này. k hề đơn jản chút nào:banghead:
 
Sửa lần cuối:
Ðề: làm sao đọc được báo cáo tài chính

nhưng đa số doanh nhiệp vừa và nhỏ ở VN thì báo cáo tài chính chỉ cho vui thôi, số liệu ko sát thực tế, vậy phải lấy gì để lập dự toán, tất nhiên là đi thẩm định thực tế
 
Ðề: làm sao đọc được báo cáo tài chính

e là thành viên mới hiện đang cần làm một báo cáo tài chính nộp cho thầy mà không bít dàn bài làm sao.
e thấy trên diễn đàn có mấy bài mà e ko đọc được .
hu hu.:confuse1:
e đc bi là khi phân tích báo cáo tài chính cần so sánh với số liệu trung bình của ngành .
hiện tại e đang làm về ngành ngân hàng mà không bít lấy mấy chỉ số trung bình ngành ở đâu .có ai biết chỉ dùm e.
Tớ tìm thấy bài phân tích báo cáo tài chính, chia sẻ cùng mọi người.
PHÂN TÍCH BÁO CÁO TÀI CHÍNH
Các mục tiêu phân tích báo cáo tài chính

Phân tích báo cáo tài chính xét theo nghĩa khái quát đề cập tới nghệ thuật phân tích và giải thích các báo cáo tài chính. Để áp dụng hiệu quả nghệ thuật này đòi hỏi phải thiết lập một quy trình có hệ thống và logic, có thể sử dụng làm cơ sở cho việc ra quyết định. Trong phân tích cuối cùng, việc ra quyết định là mục đích chủ yếu của phân tích báo cáo tài chính. Dù cho đó là nhà đầu tư cổ phần vốn có tiềm năng, một nhà cho vay tiềm tàng, hay một nhà phân tích tham mưu của một công ty đang được phân tích, thì mục tiêu cuối cùng đều như nhau - đó là cung cấp cơ sở cho việc ra quyết định hợp lý. Các quyết định xem nên mua hay bán cổ phần, nên cho vay hay từ chối hoặc nên lựa chọn giữa cách tiếp tục kiểu trước đây hay là chuyển sang một quy trình mới, tất cả sẽ phần lớn sẽ phụ thuộc vào các kết quả phân tích tài chính có chất lượng. Loại hình quyết định đang được xem xét sẽ là yếu tố quan trọng của phạm vi phân tích, nhưng mục tiêu ra quyết định là không thay đổi. Chẳng hạn, cả những người mua bán cổ phần lẫn nhà cho vay ngân hàng đều phân tích các báo cáo tài chính và coi đó như là một công việc hỗ trợ cho việc ra quyết định, tuy nhiên phạm vị chú ý chính trong những phân tích của họ sẽ khác nhau. Nhà cho vay ngân hàng có thể quan tâm nhiều hơn tới khả năng cơ động chuyển sang tiền mặt trong thời kỳ ngắn hạn và giá trị lý giải của các tài sản có tính cơ động. Còn các nhà đầu tư cổ phần tiềm năng quan tâm hơn đến khả năng sinh lợi lâu dài và cơ cấu vốn. Tuy nhiên, trong cả hai trường hợp, sự định hướng vào việc ra quyết định của công tác phân tích là đặc trưng chung.
Có hai mục đích hoặc mục tiêu trung gian trong phân tích báo cáo tài chính, đồng thời là mối quan tâm cho mọi nhà phân tích thông minh. Thứ nhất, mục tiêu ban đầu của việc phân tích báo cáo tài chính là nhằm để "hiểu được các con số" hoặc để "nắm chắc các con số", tức là sử dụng các công cụ phân tích tài chính như là một phương tiện hỗ trợ để hiểu rõ các số liệu tài chính trong báo cáo. Như vậy, người ta có thể đưa ra nhiều biện pháp phân tích khác nhau nhằm để miêu tả những quan hệ có nhiều ý nghĩa và chắt lọc thông tin từ các dữ liệu ban đầu. Thứ hai, do sự định hướng của công tác phân tích tài chính nhằm vào việc ra quyết định, một mục tiêu quan trọng khác là nhằm đưa ra một cơ sở hợp lý cho việc dự đoán tương lai. Trên thực tế, tất cả các công việc ra quyết định, phân tích tài chính hay tất cả những việc tương tự đều nhằm hướng vào tương lai. Do đó, người ta sử dụng các công cụ và kĩ thuật phân tích báo cáo tài chính nhằm cố gắng đưa ra đánh giá có căn cứ về tình hình tài chính tương lai của công ty, dựa trên phân tích tình hình tài chính trong quá khứ và hiện tại, và đưa ra ước tính tốt nhất về khả năng của những sự cố kinh tế trong tương lai.
Trong nhiều trường hợp người ta nhận thấy rằng, phần lớn công việc phân tích báo cáo tài chính bao gồm việc xem xét cẩn thận, tỷ mỉ các báo cáo tài chính, thậm chí cả việc đọc kỹ lưỡng hơn đối với các chú thích và việc sắp xếp lại hoặc trình bày lại các số liệu sẵn có để đáp ứng nhu cầu của người phân tích. Khi đó, người ta có thể hỏi tại sao không thể chấp nhận các báo cáo tài chính đã chuẩn bị theo các mệnh giá, nói cách khác là tại sao lại “can thiệp vào các con số” ngay từ đầu? Câu trả lời hiển nhiên là, hầu như luôn luôn phải có can thiệp đôi chút để “hiểu rõ các con số”. Nhìn chung, đòi hỏi phải có sự phân tích nào đó với tư cách là bước đầu tiên đối với báo cáo tài chính đã được chuẩn bị nhằm chắt lọc các thông tin từ các số liệu trình bày trong báo cáo. Thứ hai, hầu hết các quyết định được thực hiện trên cơ sở phân tích báo cáo tài chính là khá quan trọng, cho nên việc chấp nhận các số liệu tài chính đã trình bày lúc đầu thường là một cách làm không tốt. Về mặt tài chính, hầu hết các quyết định đều đòi hỏi phải sử dụng một kết cấu logic, trong đó, các cảm nghĩ và các kết luận có thể được phát triển một cách có hệ thống và có ý kiến đánh giá hợp lý. Dưới đây sẽ xem xét một kết cấu như vậy. :cheers1:
-----------------------------------------------------------------------------------------
Tiếp nhé:
Phân tích tỷ lệ
Phân tích tỷ lệ là một công cụ thường được sử dụng trong phân tích báo cáo tài chính. Việc sử dụng các tỷ lệ cho phép người phân tích đưa ra một tập hợp các con số thống kê để vạch rõ những đặc điểm chủ yếu về tài chính của một số tổ chức đang được xem xét. Trong phần lớn các trường hợp, các tỷ lệ được sử dụng theo hai phương pháp chính. Thứ nhất, các tỷ lệ cho tổ chức đang xét sẽ được so sánh với các tiêu chuẩn của ngành. Có thể có những tiêu chuẩn của ngành này thông qua các dịch vụ thương mại như của tổ chức Dun and Bradstreet hoặc Robert Morris Associates, hoặc thông qua các hiệp hội thương mại trong trường hợp không có sẵn, các tiêu chuẩn ngành cho ngành đã biết hoặc do tổ chức mà ta đang xem xét không thể dễ dàng gộp lại được thành một loại hình ngành “tiêu chuẩn”. Các nhà phân tích có thể đưa ra một tiêu chuẩn riêng của họ bằng cách tính toán các tỷ lệ trung bình cho các công ty chủ đạo trong cùng một ngành. Cho dù nguồn gốc của các tỷ lệ là như thế nào cũng đều cần phải thận trọng trong việc so sánh công ty đang phân tích với các tiêu chuẩn được đưa ra cho các công ty trong cùng một ngành và có quy mô tài sản xấp xỉ.
Công dụng lớn thứ hai của các tỷ lệ là để so sánh xu thế theo thời gian đối với mỗi công ty riêng lẻ. Ví dụ, xu thế số dư lợi nhuận sau thuế đối với công ty có thể được đối chiếu qua một thời kỳ 5 năm hoặc 10 năm. Rất hữu ích nếu ta quan sát các tỷ lệ chính thông qua một vài kỳ sa sút kinh tế trước đây để xác định xem công ty đã vững vàng đến mức nào về mặt tài chính trong các thời kỳ sa cơ lỡ vận về kinh tế.
Đối với cả hai phạm trù sử dụng chính, người ta thường nhận thấy rằng “trăm nghe không bằng mắt thấy” và việc mô tả các kết quả phân tích dưới dạng đồ thị thường rất hữu ích và xúc tích. Nếu ta chọn phương pháp này để trình bày các kết quả thì tốt nhất là nên trình bày cả tiêu chuẩn ngành và xu thế trên cùng một biểu đồ. Các tỷ lệ tài chính then chốt thường được nhóm lại thành bốn loại chính, tuỳ theo khía cạnh cụ thể về tình hình tài chính của công ty mà các tỷ lệ này muốn làm rõ. Bốn loại chính, xét theo thứ tự mà chúng ta sẽ được xem xét ở dưới đây là:
1. Khả năng sinh lợi: Các tỷ lệ “ở hàng dưới cùng” được thiết kế để đo lường năng lực có lãi và mức sinh lợi của công ty.
2. Tính thanh khoản: Các tỷ lệ được thiết kế ra để đo lường khả năng của một công ty trong việc đáp ứng nghĩa vụ thanh toán nợ ngần ngắn hạn khi đến hạn.
3. Hiệu quả hoạt động: Đo lường tính hiệu quả trong việc sử dụng các nguồn lực của công ty để kiếm được lợi nhuận.
4. Cơ cấu vốn (đòn bẩy nợ / vốn): Đo lường phạm vi theo đó việc trang trải tài chính cho các khoản vay nợ được công ty thực hiện bằng cách vay nợ hay bán thêm cổ phần. Có hàng loạt tỷ lệ trong mỗi loại nêu trên. Ta sẽ xem xét tuần tự từng loại và sẽ khảo sát các tỷ lệ chính trong mỗi nhóm.
Các tỷ lệ khả năng sinh lợi
Có ba cách thường được sử dụng để đo lường khả năng sinh lợi là suất doanh thu, suất thu hồi vốn đầu tư (ROI - Return on Investment) và suất thu hồi vốn cổ phần (ROE - Return on Equity). Suất doanh thu được xác định bằng cách chia số lãi sau thuế cho doanh thu thuần tuý, trong đó doanh thu thuần túy biểu thị số tiền bán không kể lãi, các khoản tiền được trừ đi và chiết khấu tiền mặt:
Suất doanh thu = (thu nhập sau thuế ) / (doanh thu thuần tuý)
Tỷ lệ khả năng sinh lợi thứ hai là suất thu hồi vốn đầu tư (ROI), liên hệ thu nhập sau thuế với toàn bộ cơ số tài sản của công ty:
ROI = (thu nhập sau thuế ) / (tổng tài sản)
Một cách tính toán tỷ lệ này phổ biến khác là cộng thêm chi phí trả lãi vay nợ sau thuế vào tử số, dựa trên lý luận là cần phải coi suất thu hồi vốn đầu tư là suất thu hồi giành cho cho những người cho vay cũng như cho những người có cổ phần. Khi dùng thu nhập sau thuế cộng với chi phí trả lãi ở tử số ta đã đo lường suất thu hồi cho cả hai nhóm người cung vốn chủ yếu này.
Tỷ lệ khả năng sinh lợi cuối cùng là suất thu hồi cổ phần, liên hệ thu nhập sau thuế với cổ phần của các cổ đông. Thông thường, cổ phần của các cổ đông không bao hàm kết quả của mọi loại tài sản vô hình (chẳng hạn như: uy tín đối với khách hàng, nhãn hiệu thương mại, ...) và nó được xác định bằng cách lấy tổng tài sản trừ đi tổng số nợ và các tài sản vô hình. Tỷ lệ này được tính như sau:
ROE = (thu nhập sau thuế) / (cổ phần của các cổ đông)
Suất thu hồi cổ phần thường được coi là tỷ lệ quan trọng nhất trong các tỷ lệ vê khả năng sinh lợi. Với tư cách là một chỉ dẫn chung, suất thu hồi cổ phần ở mức tối thiểu là 15% là mục tiêu hợp lý để tính toán đưa ra những khoản cổ tức thích hợp và để tạo nguồn quỹ cho sự tăng trưởng kỳ vọng trong tương lai.
Các tỷ lệ về tính thanh khoản
Một thước đo tính cơ động được dùng phổ biến nhất, đó là tỷ lệ thanh toán hiện hành. Tỷ lệ này được thiết kế ra để đo lường mối liên hệ hoặc “sự cân đối” giữa tài sản lưu động (chủ yếu là tiền mặt, các chứng khoán bán được trên thị trường, các khoản phải thu và các khoản dự trữ) với nợ ngắn hạn (chủ yếu là các khoản phải trả, các phiếu nợ vãng lai phải trả và phần sắp đến hạn phải trả của khoản nợ dài hạn). Theo kinh nghiệm, đa số cho rằng tỷ lệ này ít nhất nên là 2/1 đối với phần lớn các hoạt động kinh doanh. Tỷ lệ này được tính như sau:
Tỷ lệ thanh toán hiện hành = (tài sản lưu động) / (nợ ngắn hạn)
Một tỷ lệ khác gắn liền với tỷ lệ thanh toán hiện hành cũng thường được dùng là tỷ lệ thanh toán nhanh. Tỷ lệ này cũng còn được gọi là “phép kiểm định a-xít” được thiết kế ra để đo lường mối liên hệ giữa phần được gọi là các tài sản linh hoạt (tức là phần tài sản có thể nhanh chóng chuyển thành tiền mặt) với số nợ ngắn hạn. Nó được tính toán như sau:
Tỷ lệ thanh toán nhanh = {(tiền mặt) + (các chứng khoán bán được) + (các khoản phải thu)} / (nợ ngắn hạn)
Như ta có thể thấy từ công thức trên, tỷ lệ thanh toán nhanh về cơ bản đo lường mối liên hệ giữa các tài sản lưu động chứ không phải là dự trữ với phần nợ ngắn hạn. Theo kinh nghiệm, đa số cho rằng tỷ lệ này ít nhất nên là 1/1. Hai tỷ lệ cuối cùng về tính thanh khoản đo lường tốc độ chuyển các khoản phải thu và các khoản dự trữ thành những tài sản lưu động linh hoạt hơn.
Kỳ thu tiền bình quân là tỷ lệ đo lường tốc độ chuyển các khoản phải thu thành tiền mặt:
Doanh thu trung bình hàng ngày = (doanh thu thuần túy) / 365 ngày
Kỳ thu tiền bình quân = (các khoản phải thu) / (doanh thu trung bình hàng ngày)
Quy tắc theo đa số cho rằng, kỳ thu tiền bình quân không nên vượt hạn thực tế phải thanh toán theo quy định của các điều kiện bán hàng của công ty quá 10 hoặc 15 ngày (xem Dun và Bradstreet, 1980, trang 3).
Tỷ lệ luân chuyển dự trữ (vòng quay hàng tồn kho) biểu thị quan hệ của các mức luân chuyển hàng năm hoặc số ngày mà các hàng hóa được lưu giữ lại dưới dạng dự trữ, đo lường tốc độ chuyển các khoản dự trữ thành lượng bán (và do đó sẽ trở thành các khoản phải thu):
Luân chuyển dự trữ = (giá vốn hàng bán) / (dự trữ trung bình)
Số ngày hàng hóa nằm trong dự trữ = (365 ngày) / (luân chuyển dự trữ)
 
Sửa lần cuối:
Ðề: làm sao đọc được báo cáo tài chính

Phần 3 nè: dài quá.
Các tỷ lệ về hiệu quả hoạt động
Các tỷ lệ hiệu quả hoạt động cho ta số đo về mối liên hệ giữa số doanh thu và số đầu tư hàng năm trong các loại tài khoản tài sản khác nhau. Tỷ lệ đầu tiên được trình bầy trong phạm trù này giữa doanh thu với dự trữ khá giống với tỷ lệ luân chuyển dự trữ nêu trong phần các tỷ lệ về tính thanh khoản, nhưng có một điểm khác biệt rất quan trọng. Tỷ lệ luân chuyển dự trữ nêu ra ở đây cho ta một ước tính về các mức luân chuyển vật lý, do trong tử số của tỷ lệ này sử dụng con số về giá vốn hàng bán. Tỷ lệ giữa doanh thu với dự trữ được trình bày ở đây sẽ sử dụng doanh thu thuần tuý trong tử số, tức là giá vốn hàng bán cộng số dư lãi gộp. Do đó, trong khi tỷ lệ giữa doanh thu với dự trữ không cho ta số đo về mức luân chuyển vật lý, nhưng nó lại cho ta một chỉ tiêu quan trọng và tiện dụng để so sánh tỷ lệ của số tiền bán được với số dự trữ của một doanh nghiệp với tỷ lệ đó của doanh nghiệp khác. Các tỷ lệ khác trong phạm trù này hoàn toàn dễ hiểu.
Doanh thu thuần túy so với dự trữ = (doanh thu thuần túy) / (dự trữ)
Doanh thu thuần túy so với vốn lưu động = (doanh thu thuần túy) / (vốn lưu động)
Doanh thu thuần túy so với tổng tài sản = (doanh thu thuần túy) / (tổng tài sản)
Doanh thu thuần túy so với tài sản cố định = (doanh thu thuần túy) / (tải sản cố định)
Doanh thu thuần túy so với vốn cổ phần = (doanh thu thuần túy) / (cổ phần của các cổ đông)

Các tỷ lệ về cơ cấu vốn (đòn bẩy nợ / vốn)
Nói chung, thuật ngữ đòn bảy nợ / vốn nói về phạm vi mức độ một công ty sử dụng vốn đi vay để trang trải tài chính cho các hoạt động của nó. Công ty càng sử dụng nợ nhiều hơn thì nó càng được coi là bị tác động đòn bẩy cao hơn. Hai tỷ lệ đầu tiên mà ta xem xét trong phạm trù này thường được nói tới rất nhiều, đó là tỷ lệ nợ và tỷ lệ nợ - cổ phần:
Tỷ lệ nợ = (tổng số nợ) / (tổng tài sản)
Tỷ lệ nợ - cổ phần = (nợ dài hạn) / (cổ phần)
Tỷ lệ chủ yếu thứ ba trong phạm trù này là tỷ lệ số lần trả được lãi. Tỷ lệ này đo lường số dollar thu nhập trước khi trả lãi vay nợ và đ:happy3:óng thuế ứng với mỗi dollar trả lãi vay nợ. Tỷ lệ này được tính bằng tỷ số giữa nguồn thu trước khi trả lãi và đóng thuế (EBIT - Earning before interest and taxes) với số chi trả lãi:
Số lần trả được lãi = (nguồn thu trước khi trả lãi và đóng thuế) / (chi phí trả lãi)
Để tính EBIT chỉ cần lấy nguồn thu sau thuế cộng với chi phí trả lãi cộng với số chi trả thuế thu nhập có trong báo cáo thu nhập. Sau đó đem chia tổng này cho chi phí trả lãi để thu được tỷ lệ số lần được lãi. Đối với phần lớn các công ty thì tỷ lệ số lần được lãi nằm trong phạm vi từ 4,0 tới 5,0 được coi là rất mạnh. Tỷ lệ nằm trong phạm vi từ 3,0 tới 4,0 sẽ được coi là mức bảo vệ thích hợp trước sự sa cơ lỡ vận có thể có trong tương lai.
Quan hệ qua lại giữa các tỷ lệ
Cùng với sự xem xét riêng từng tỷ lệ riêng lẻ, điều hết sức quan trọng là cần phải xem xét mối liên hệ qua lại giữa các tỷ lệ khác nhau. Khả năng sinh lợi của một công ty, khả năng cơ động, tính hiệu quả của hoạt động và tình hình về cơ cấu vốn, tất cả đều có liên hệ qua lại với nhau và không nên xem xét một mặt đơn lẻ nào trong hoạt động tách rời với các mặt khác. Có hai công thức đặc biệt hữu ích trong việc xác định các mối liên hệ này. Công thức đầu tiên trong hai công thức từ lâu đã được biết đến dưới tên gọi “hệ thống phân tích DuPont” gắn liền suất thu hồi đầu tư với suất dư lợi nhuận và mức luân chuyển tài sản của công ty:


Như phương trình trên cho thấy, ROI là kết quả tương tác của hai thành phần quan trọng, suất dư lợi nhuận của công ty (thu nhập thuần túy/doanh thu) và mức luân chuyển tài sản (doanh thu/tổng tài sản). Khi phát biểu ngắn gọn người ta thường coi ROI là suất dư nhân với luân chuyển. Đây là một quan hệ quan trọng vì nó chỉ ra rằng, với tư cách là số do thành tích thực hiện toàn cục, ROI là sản phẩm của hai yếu tố: khả năng sinh lợi của công ty (được đo bởi số dư lợi nhuận của nó) và hiệu quả hoạt động của nó (được đo bằng tổng luân chuyển tài sản của nó). Khi phân tích tổng mức thu hồi đầu tư của công ty, nếu chỉ xem xét một số đo trong quá trình hoạt động thì không thích hợp, cần phải xem xét cả hai. Với tư cách là công cụ trợ giúp dự báo, công thức này cho ta thấy thêm là, vấn đề về ROI tiềm năng có thể là “vấn đề về báo cáo thu nhập” (suất dư lợi nhuận) hoặc “vấn đề về quản lý tài sản” (luân chuyển tài sản). Phần áp dụng thực hành quan hệ này sẽ được minh họa trong phần nghiên cứu tình huống ở cuối chương này.
Công chức thứ hai với bản chất tương tự cho ta một sự hiểu biết sâu sắc thú vị và hữu ích trong những mối liên hệ giữa suất thu hồi vốn đầu tư, suất thu hồi cổ phần và tình hình cơ cấu của vốn công ty:

Phương trình này cho ta thấy mối liên hệ trực tiếp giữa ROE, ROI và cơ cấu vốn. Cơ cấu nợ / vốn của công ty càng cao (được do bởi tỷ lệ của tổng nợ/tổng tài sản) thì mối liên hệ giữa ROE và ROI của nó sẽ càng cao. Ví dụ, nếu cả hai công ty đều có ROI ở mức 9,0 % nhưng công ty A có tỷ lệ tổng nợ/tổng tài sản là 35 %, trong khi công ty B có tỷ lệ bằng 70 % thì khi ấy, các số liệu về ROE đối với hai công ty này sẽ như sau:

Ví dụ này cho thấy rằng, mặc dù hai công ty có khả năng sinh lợi ngang nhau xét theo quan điểm hoạt động (xét theo ROI), nhưng công ty B có suất thu hồi cổ phần cao hơn nhiều do kết quả của cơ cấu tài chính công ty đó. Để có số ROE tăng thêm này, những người có cổ phần đã phải chấp nhận mức rủi ro cao hơn nhiều, gắn liền với đòn bẩy nợ / vốn gia tăng. Cũng thú vị khi nhận thấy rằng, tỷ lệ đòn bẩy nợ / vốn của công ty B đúng bằng 2 lần của công ty A, trong khi ROE của công ty B lớn hơn 2 lần so với công ty A. Mặc dù không thể chứng minh được bằng phép tính số học nhưng cũng khá rõ để thấy rằng việc tăng đôi tỷ lệ đòn bẩy nợ / vốn giữa công ty B so với công ty A đã đưa tới sự mạo hiểm có khả năng vỡ nợ của công ty B gấp hơn hai lần so với công ty A. Mối liên hệ này sẽ được minh họa lại một lần nữa trong ví dụ thực hành trong nghiên cứu tình huống dưới đây.
Trong điểm lưu ý cuối cùng có liên quan tới việc phân tích tỷ lệ, cần phải nhấn mạnh lại rằng việc tính toán và trình bày các hệ thống tỷ lệ của một công ty trong một năm nào đó, bản thân nó chỉ có lợi ích hạn chế. Cần phải đối chiếu các tỷ lệ này với thành tựu trong các năm khác và với các tiêu chuẩn thích hợp cho các công ty có quy mô tài sản xấp xỉ trong các ngành tương tự. Trong phần sau sẽ xem xét cách dùng báo cáo với quy mô chung để phân tích tài chính và rõ ràng cũng cần phải có những tiêu chuẩn mới thích hợp.
Các báo cáo theo quy mô chung
Các báo cáo tài chính theo quy mô chung biểu thị toàn bộ các tài khoản trên bảng cân đối kế toán và phần báo cáo thu nhập theo số phần trăm của con số chính yếu nào đó. Trên báo cáo thu nhập, doanh thu thuần túy được coi là 100 % và toàn bộ các khoản mục khác được biểu thị bằng tỷ lệ phần trăm của số doanh thu. Trên bảng cân đối, tổng tài sản được coi là 100 % ở trên phía trái còn tổng số nợ và cổ phần được coi là 100 % ở bên phải. Toàn bộ các khoản mục tài sản được liệt kê theo số phần trăm của tổng tài sản và toàn bộ các khoản mục nợ và cổ phần được liệt kê theo số phần trăm của tổng số nợ và cổ phần.
Mục đích của việc chuẩn bị các báo cáo loại này là nhằm tạo thuận lợi cho việc phân tích các khía cạnh quan trọng về tình hình tài chính và các hoạt động của công ty. Nên hình dung các báo cáo này như là phần bổ sung cơ bản cho các thông tin đã có từ các loại tỷ lệ khác nhau đã thảo luận trước đây. Trên bảng cân đối theo quy mô chung, người ta tập trung nỗ lực phân tích vào cơ cấu bên trong và vào việc phân bố các nguồn lực tài chính của công ty. Trên phía các tài sản, báo cáo theo quy mô chung sẽ mô tả cách thức phân bố các khoản đầu tư trong các nguồn tài chính khác nhau giữa các khoản mục tài sản.
Một trong những điểm được quan tâm đặc biệt ở đây là việc lựa chọn cách phân bố nguồn lực giữa tài sản lưu động và tài sản cố định và cách phân bố các tài sản lưu động giữa các chủng loại khác nhau của các tài khoản vốn hoạt động - chủ yếu là sự phân bố khoản đầu tư vốn hoạt động giữa tiền mặt, các khoản phải thu và dự trữ. Trên phía nợ và cổ phần, bảng cân đối theo quy mô chung chỉ ra sự phân bố theo phần trăm của nguồn tài chính do nợ ngắn hạn, nợ dài hạn và vốn cổ phần đem lại. Một trong những điều quan tâm ở đây là mối liên hệ giữa nợ dài hạn và cổ phần, “sự tách biệt” giữa nợ ngắn hạn và các nguồn tài chính dài hạn do vay nợ và do cổ phần đem lại.
Báo cáo theo quy mô chung thứ hai là báo cáo thu nhập theo quy mô chung. Nó cho thấy tỷ lệ doanh số hoặc doanh thu mà một dollar thu được nhờ các khoản mục chi phí và chi tiêu khác. Một lần nữa cần phải chú ý rằng, không thể xem xét riêng rẽ những liên hệ do các báo cáo theo quy mô chung mô tả. Cần phải xem xét xu thế từ năm này qua năm khác đối với công ty và cần phải tiến hành so sánh với các tiêu chuẩn ngành.
Trình tự phân tích
Mục tiêu chính của mỗi phân tích sẽ qui định mức độ chú trọng tương đối đối với mỗi phạm vi chính trong phân tích, đó là khả năng sinh lợi, tính cơ động, hiệu quả hoạt động hoặc cơ cấu vốn. Nhưng mặc dù ý định phân tích thế nào cũng không thể bỏ qua hoàn toàn một phạm vi riêng lẻ nào cả và có thể sử dụng một khuôn khổ logic để xem xét một cách có hệ thống đối với thể trạng tài chính của công ty. Bước đầu tiên trong trình tự này là cần phải cụ thể hóa mục tiêu phân tích một cách rõ ràng và đưa ra một hệ thống các câu hỏi then chốt cần phải giải đáp để đạt được mục tiêu này. Sau đó, bước thứ hai là chuẩn bị các dữ liệu cần thiết để thực hiện các mục tiêu cụ thể. Bước này thường đòi hỏi phải chuẩn bị các tỷ lệ chủ yếu và các báo cáo theo quy mô chung.
Bước thứ ba liên quan tới việc phân tích và giải thích các thông tin số lượng đã có ở bước hai. Nói chung, trước hết nên xem xét các thông tin do việc phân tích các tỷ lệ đem lại nhằm đưa ra một cảm nhận bao quát chung về các phạm vi tiềm tàng của vấn đề, sau đó chuyển sang các thông tin chứa đựng trong các báo cáo tài chính theo quy mô chung. Những câu hỏi và ý kiến sơ bộ đưa ra khi phân tích các con số tỷ lệ thường cho ta những hiểu biết sâu sắc có giá trị, có thể giúp cho việc tập trung sức lực vào việc xem xét các báo cáo quy mô chung.
Bước cuối cùng trong khảo sát đòi hỏi nhà phân tích hình thành những kết luận dựa trên những số liệu và trả lời những câu hỏi đã nêu ra trong bước một. Những đề xuất cụ thể với sự hỗ trợ của những số liệu sẵn có được trình bày vào giai đoạn cuối cùng cùng với những tóm tắt ngắn gọn về những điểm chính đã được đưa ra trước đây. Nếu người phân tích muốn đệ trình cho những bên quan tâm khác để xem xét, thì cách thường làm là nên bắt đầu một bản báo cáo bằng văn bản với phần tóm tắt ngắn gọn những kết luận đã nêu ra trong giai đoạn cuối cùng này. Điều này cho phép người đọc nắm được những vấn đề chính của tình huống và sau đó sẽ đọc một cách lựa chọn đối với mức độ chi tiết hơn tùy theo sự quan tâm chủ yếu của họ.
 
Ðề: làm sao đọc được báo cáo tài chính

Muốn hiểu đc báo cáo tài chính, fải hiểu đc số liệu ấy từ đâu ra, làm thế nào để có đc nó. Báo cáo TC là phần cuối cùng để tổng hợp lại doanh thu, chi phí và lợi nhuận, vì vậy bạn fải xem các loại sổ chi tiết khác và bảng cân đối kế toán.
 
Ðề: làm sao đọc được báo cáo tài chính

khi đọc BCTC, những điều nào cần phải quan tâm trước nhất. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ: đọc và hiểu như thế nào
 
Ðề: làm sao đọc được báo cáo tài chính

có anh chị nào có bài mẫu ko?:D:chopmat:
 
Ðề: làm sao đọc được báo cáo tài chính

bạn có thể vào trang vinabull.com để tìm trung bình ngành nhé!!
 
Ðề: làm sao đọc được báo cáo tài chính

em hãy tìm và đọc sách chuẩn mực kế toán em nhé.rồi em sẽ hiểu vì quyển đó phân tích từng chỉ tiêu của báo cáo
 
Ðề: làm sao đọc được báo cáo tài chính

Để đọc đc báo cáo tài chính bạn phải hiểu sâu từng chỉ tiêu: do đâu mà có, lấy từ cái j, tổng hợp của những cái j, và nó phản ánh cái j ??? Ko đơn giản chút nào:xileuleu:
 
Ðề: làm sao đọc được báo cáo tài chính

từ từ ngâm cứu đi bạn rùi từtừ cũng hiểu mà
 

CẨM NANG KẾ TOÁN TRƯỞNG


Liên hệ: 090.6969.247

KÊNH YOUTUBE DKT

Cách làm file Excel quản lý lãi vay

Đăng ký kênh nhé cả nhà

SÁCH QUYẾT TOÁN THUẾ


Liên hệ: 090.6969.247

Top