Hệ thống xác lập chi phí dựa trên hoạt động

Simon

Member
Hội viên được tín nhiệm
So với các phương pháp truyền thống, phương pháp ABC (Activity-Based Costing) trước hết quy tập toàn bộ chi phí gián tiếp (các chi phí khác chi phí nguyên liệu trực tiếp, và chi phí lao động trực tiếp) đối với mỗi hoạt động của tổ chức, sau đó phân bổ các chi phí theo hoạt động này vào từng sản phẩm, dịch vụ, hay vào các đối tượng tạo ra hoạt động đó, thông qua các kích tố chi phí (cost driver).

Trong phương pháp truyền thống, tỷ lệ tổng chi phí gián tiếp phân bổ vào thành phẩm thường phụ thuộc vào tỷ lệ của tổng số giờ lao động trực tiếp cần có để làm ra thành phẩm đó. Còn trong ABC, các hoạt động gián tiếp đáng chú ý (như chạy máy, lắp ráp, kiểm tra chất lượng,...) được xác định bởi giám đốc vận hành. Sau đó, chi phí cho các nguồn lực gián tiếp đã tiêu dùng để thực hiện các hoạt động đó sẽ được truy nguyên theo hoạt động thông qua kích tố chi phí thích hợp. Cuối cùng, tập hợp các chi phí của từng hoạt động sẽ được phân bổ tiếp về các thành phẩm thông qua các kích tố chi phí hợp lý khác. Nói một cách hình tượng hơn, hệ thống ABC xé nhỏ chiếc bánh chi phí gián tiếp thành các mẩu bánh tương ứng với mỗi hoạt động nhất định.
Đến đây, có lẽ các bạn vẫn cảm thấy khá mông lung về ABC. Một ví dụ có lẽ sẽ làm sáng tỏ hơn vấn đề. Từ những năm cuối của thập kỷ 80, công ty Elgin Sweeper của Bắc Mỹ đã áp dụng ABC như sau:

- Bước đầu tiên là nghiên cứu các hoạt động tạo phí, lập danh sách các đơn vị tính phí có thể, cho mỗi hoạt động. Các đơn vị tính phí của Elgin bao gồm: tiền công lao động ($), giờ lao động, số lượng hàng gửi đi, số lượng thành phẩm, số đơn đặt hàng, doanh thu, ngày làm việc, thông báo thay đổi kỹ thuật, thời gian lao động kỹ thuật,... Các chi phí thay đổi với từng đơn vị tính phí được nhận dạng và tính toán.

- Tiếp theo, Elgin thiết lập báo cáo về dây truyền sản xuất cho phép đánh giá hiệu quả của các quyết định phân bổ nguồn lực. Kết quả của việc áp dụng hệ thống xác lập chi phí là sự tham gia của các giám đốc sản xuất vào việc nhận dạng kích tố chi phí và sự xoá bỏ các hoạt động không tạo ra giá trị gia tăng.

Gợi ý các bước xác lập hệ thống ABC:

1. Xác định các đối tượng tạo phí, các hoạt động, nguồn lực, và kích tố chi phí liên quan. Công việc này cần có sự giúp đỡ của các nhân viên chuyên môn. Kích tố chi phí được chọn dựa trên 2 tiêu chí:

- Quan hệ nhân quả hợp lý giữa kích tố chi phí và lượng tiêu hao nguồn lực.
- Dữ liệu về kích tố chi phí có thê thu thập được.

2. Phát triển một sơ đồ quá trình, biểu thị các luồng hoạt động, nguồn lực và mối quan hệ qua lại giữa chúng. Việc xác định mối quan hệ qua lại là một bước rất quan trọng, rất cần thiết thông qua các nhân viên chuyên môn.

3. Thu thập dữ liệu liên quan tới chi phí và các luồng kích tố chi phí hữu hình giữa các nguồn lực và các hoạt động. Thông qua chỉ dẫn của sơ đồ đã lập, kế toán viên có thể thu thập được thông tin về các chi phí cần thiết và các dự liệu vận hành. Các nguồn dữ liệu có thể là các bản ghi kế toán, nghiên cứu đặc biệt, phỏng vấn, và ước tính của các giám đốc vận hành.

4. Tính toán và diễn dịch các thông tin mới dựa trên hoạt động.

Có thể thấy rằng, phương pháp ABC có thể biến một chi phí gián tiếp thành một chi phí trực tiếp với một đối tượng tạo phí xác định. Việc lựa chọn các hoạt động và kích tố chi phí hợp lý cho phép các nhà quản lý truy nguyên nhiều chi phí gián tiếp như họ đã làm với chi phí nguyên liệu trực tiếp hay chi phí lao động trực tiếp. Vì xác định được nhiều chi phí trực tiếp hơn so với cách thức truyền thống, ABC giúp nhà quản lý có được những báo cáo về chi phí sản phẩm và dịch vụ với độ tin cậy cao hơn nhiều.

Phương pháp ABC phức tạp và tất nhiên là tốn kém hơn các phương pháp truyền thống, vì vậy không phải bất cứ công ty nào cũng đủ điều kiện áp dụng. Tuy nhiên, ABC sẽ là xu hướng tất yếu đối với quản trị bởi:

- Năng lực cạnh tranh dựa trên chi phí giảm thiểu đòi hỏi phải có những số liệu chính xác hơn về chi phí, tránh tình trạng lợi nhuận giả tạo.
- Sự đa dạng hoá ngày một tăng của các sản phẩm và dịch vụ cùng với độ phức tạp của các phân đoạn thị trường. Vì thế, việc tiêu dùng các nguồn lực cũng sẽ thay đổi theo các sản phẩm và dịch vụ.
- Chu kỳ sống của sản phẩm trở nên ngắn hơn do tốc độ phát triển của công nghệ làm công ty không đủ thời gian điều chỉnh giá cả và chi phí.
- Xác định đúng chi phí là một phần quan trọng của việc ra quyết định kinh doanh. Thiếu nó, sự chuẩn xác của quyết định sẽ giảm thiểu.
- Cách mạng trong công nghệ máy tính đã làm giảm được chi phí về tiền bạc lẫn thời gian cho việc phát triển và vận hành hệ thống xác lập chi phí có khả năng truy nguyên nhiều hoạt động.

(Theo Tạp Chí Kế Toán)
 
Chi phí biên

Việc thay đổi một mức độ hoạt động nào đó của doanh nghiệp luôn dẫn tới sự thay đổi chi phí biến đổi và thậm chí cả chi phí cố định. Phần thay đổi này được gọi là chi phí biên. Nắm bắt được chi phí biên theo từng mức sản xuất với một cấu trúc cho trước, cho phép tối ưu năng lực sản xuất, xác định giá bán và tối đa lợi nhuận.

Thông qua chi phí biên, nhà sản xuất có thể xác định được mức giá bán tối thiểu đối với từng khu vực khách hàng nhất định và đối với các đơn đặt hàng lớn mà không làm ảnh hưởng tới chính sách thương mại hiện tại.
Vì sao các công ty có thể áp dụng các chính sách giá dựa theo số lượng thành phẩm tiêu thụ? Các đợt bán hàng giảm giá liệu có đem lại kết quả lỗ cho công ty? Việc mở rộng quy mô sản xuất và thay đổi cấu trúc tài sản cố định có ảnh hưởng như thế nào đối giá thành sản phẩm? Các câu hỏi trên có thể được làm sáng tỏ khi sử dụng chi phí biên trong kế toán quản trị.

Chi phí biên là chi phí trên đơn vị thành phẩm được sản xuất và tiêu thụ cuối cùng. Chi phí biên bao gồm các chi phí biến đổi bổ sung bởi có sự gia tăng trong sản xuất, các chi phí này có thể là gián tiếp (tiêu thụ năng lượng) hoặc trực tiếp (nguyên vật liêu, nhân công). Chi phí biên cũng có thể bao gồm chi phí cố định nếu việc gia tăng sản xuất đòi hỏi sửa đổi hoặc bổ sung về cấu trúc (chi phí lắp đặt và khấu hao máy móc bổ sung, lương cho một bộ phận mới). (Xem thêm Chi phí phân mức).

Có thể đơn giản hoá bằng biểu thức:

Chi phí biên MC = (DC / Dn) Với: DC = thay đổi chi phí và Dn = thay đổi sản lượng tính ra đơn vị.
Tài sản cố định đã đuợc đầu tư lắp đặt tức là chi phí cố định của một mức sản xuất nhất định (gọi là mức sản xuất thứ nhất) được thực hiện ngay khi chưa thực sự làm ra bất cứ sản phẩm nào. Chi phí biên là chi phí hình thành khi bắt đầu vận hành máy móc, sử dụng nguyên vật liệu và nhân lực để tạo ra sản phẩm (gọi là mức sản xuất thứ hai). Mức này chỉ bao gồm các chi phí biến đổi vì cơ cấu chưa cần phải sửa đổi hay bổ sung.

Như vậy, hai mức sản xuất đầu tiên sẽ có chi phí ngày càng giảm vì cơ cấu tài sản cố định được tận dụng, nhất là khi mức tiêu thụ gia tăng. Tuy nhiên, mức sản xuất với tài sản cố định đã đầu tư (thứ nhất) sẽ chỉ tăng tới một giá trị nhất định, sau đó sẽ cần các khoản đầu tư thêm, vì những lý do như tăng công suất, đảm bảo điều kiện lao động... Cũng phải kể thêm đến các chi phí phân phối, đặc biệt trong các điều kiện khó tiếp cận khách hàng. Khi đó, chi phí biên trên đơn vị sản phẩm sẽ bắt đầu tăng lên (vì bao gồm cả chi phí cố định và biến đổi bổ sung do việc gia tăng sản xuất).

So sánh với chi phí trung bình (bằng tổng chi phí chia cho số lượng sản phẩm) ta thấy chi phí trung bình không chỉ tính chi phí của mức sản xuất sau cùng mà còn tính đến cả chi phí của tất cả các mức sản xuất trước. Chi phí trung bình của mức sản xuất thứ nhất vì vậy bằng chính chi phí cố định (thứ nhất). Như vậy chí phí trung bình của mức tiếp theo sẽ cao hơn chi phí biên của mức đó vì có tính cả phần chi phí cho cơ cấu cố định.

Khi chi phí biên giảm, chi trung bình cũng giảm vì một phần chi phí cố định được phân bổ vào số lượng tăng dần các sản phẩm (mẫu số tăng dần) và vì chi phí biến đổi của mức cuối cùng thấp hơn của mức trước nó. Tuy nhiên, khi chi phí biên bắt đầu tăng (do phải đầu tư thêm) thì chi phí trung bình vẫn có thể tiếp tục giảm vì tỷ trọng đầu tư bổ sung không đáng kể so với mức đầu tư ban đầu. Chi phí trung bình sẽ tăng lên khi chi phí biến đổi trên từng đơn vị sản phẩm không còn được bù đắp bởi phần chi phí cố định. Điểm sản lượng tối ưu đạt được khi chi phí trung bình bằng chi phí biên, khi đó chi phí sản xuất trên từng đơn vị sản phẩm ở mức thấp nhất.

Phân tích chi phí biên giúp các công ty xác định được chính sách giá thấp đối với các khách hàng mới, các khách hàng đặt số lượng lớn, hoặc mức giá thanh lý kho trong thời điểm "sold" hàng năm. Việc hạ giá bán được áp dụng nếu không làm ảnh hưởng tới các khách hàng hiện tại (sold là một ví dụ điển hình) và mỗi sản phẩm sản xuất thêm có chi phí biên thấp mà không làm thay đổi cấu trúc sản xuất.

Xin đưa ra một ví dụ: chẳng hạn công ty có mức tiêu thụ 5000 sản phẩm ở mức giá 30$/1chiếc.

chiphibien9fo.jpg


đơn vị: $
Lợi nhuận trên 1 đơn vị sản phẩm là: 30-22,5=7,5$. Tổng lợi nhuận là: 7,5x5000=37500$.

Lợi nhuận trên 1 đơn vị sản phẩm là: 30-22,5=7,5$. Tổng lợi nhuận là: 7,5x5000=37500$. - Trường hợp 1: một khách hàng đặt hàng 1000 sản phẩm và yêu cầu một mức giá thấp hơn. Như vậy, sản lượng sẽ tăng lên 6000 chiếc. Nếu việc bán 1000 sản phẩm này không làm thay đổi việc bán hàng thường nhật (nhất là đối với các khách hàng thường xuyên) và không làm thay đổi cấu trúc tài sản cố định, công ty có thể bán 1000 sản phẩm đó với giá bằng chi phí biên là 25,2$. Nếu công ty bán số thành phẩm với giá 27$/1chiếc, tổng lợi nhuận khi ấy là: 37500+(2 -25,2)x1000=39300$.
- Trường hợp 2: doanh nghiệp quyết định giảm giá 5% cho các khách hàng có từ 2 con trở lên. Nghiên cứu thị trường cho thấy lượng tiêu thụ có thể tăng lên tới 6000 chiếc. Xin chớ nhầm lẫn rằng tổng thu nhập sẽ tăng lên [30x(1-5%) - 25,2]x1000=3300$ vì một số khách hàng trước đó cũng thuộc nhóm ưu tiên và vì thế cũng được hưởng ưu đãi giảm giá. Ví dụ trong số khách hàng cũ có 500 khách hàng có từ 2 con trở lên, như vậy, phần giảm giá con thiếu là: [30x(1-5%) - 25,2]x500=750$ tức là tổng lợi nhuận chỉ tăng lên: 3300-750=2550$.

- Trường hợp 2: doanh nghiệp quyết định giảm giá 5% cho các khách hàng có từ 2 con trở lên. Nghiên cứu thị trường cho thấy lượng tiêu thụ có thể tăng lên tới 6000 chiếc. Xin chớ nhầm lẫn rằng tổng thu nhập sẽ tăng lên [30x(1-5%) - 25,2]x1000=3300$ vì một số khách hàng trước đó cũng thuộc nhóm ưu tiên và vì thế cũng được hưởng ưu đãi giảm giá. Ví dụ trong số khách hàng cũ có 500 khách hàng có từ 2 con trở lên, như vậy, phần giảm giá con thiếu là: [30x(1-5%) - 25,2]x500=750$ tức là tổng lợi nhuận chỉ tăng lên: 3300-750=2550$.
Phương pháp chi phí biên thường được sử dụng khi nhà quản lý cần có quyết sách đúng đắn về một hoạt động mới hoặc nhằm thay đổi một hoạt động hiện tại. Thông qua chi phí biên, người ta có thể tính toán và so sánh doanh thu bổ sung kỳ vọng. Chi phí biên cũng được sử dụng để so sánh và đưa ra quyết định loại bỏ hoặc giảm các hoạt động được coi là không hiệu quả. Cần đặc biệt lưu ý tới khái niệm này khi việc thay đổi cấu trúc là điều kiện nhất thiết cho việc phát triển. Các tính toán chi phí biên cũng cần được thực hiện đều đặn trong dài hạn nhằm đảm bảo tính bền vững.
 
Ðề: Hệ thống xác lập chi phí dựa trên hoạt động

Chào cả nhà! Em đang làm tiểu luận về kế toán dựa trên hoạt đông ( ABC ) nhưng không có tài liệu cụ thể, ai có thì send cho em với. Em cảm ơn nhiêu!
 

CẨM NANG KẾ TOÁN TRƯỞNG


Liên hệ: 090.6969.247

KÊNH YOUTUBE DKT

Cách làm file Excel quản lý lãi vay

Đăng ký kênh nhé cả nhà

SÁCH QUYẾT TOÁN THUẾ


Liên hệ: 090.6969.247

Top